11

            Về mặt nhận thức, có thể nói con người sống trong vũ trụ có hai nhu cầu chính: thứ nhất là tìm hiểu vũ trụ xung quanh để có thể sử dụng mọi thứ trong đó sao cho có lợi nhiều nhất cho cuộc sống của mình, đồng thời có thể tránh được những thứ có thể gây hại cho mình; thứ nhì là nhu cầu tìm hiểu để thoả mãn trí tò mò, hiểu biết để hiểu biết, không cần biết có lợi hay không (1).

            Nhưng con người cổ thời còn chất phác, chưa lí luận nhiều thì nhu cầu thứ nhất là quan trọng. Còn vũ trụ quanh mình thì chứa đựng quá nhiều bí mật, khám phá sao cho hết, giải thích sao cho đúng tất cả mọi sự kiện xẩy ra để từ đó hành động cho đúng hầu thủ lợi đến mức tối đa, tránh hại đến mức tối thiểu?

            Những bước đi đầu tiên của nhân loại trên con đường tiến hoá thường là mò mẫm. Những kiến thức đầu tiên thường là những mớ kinh nghiệm hỗn tạp chưa được phân loại, hệ thống hoá và có khi chưa đạt tới chân lí, đó là điều tất yếu. Bởi vậy khi phán đoán về tập tục tín ngưỡng của người xưa, kẻ hậu sinh phải tự đặt mình vào bối cảnh lịch sử, xã hội đương thời để có thái độ vô tư, công bằng đối với tiền nhân (2).

            Trong chương này, chúng tôi xin xét đến một số tin tưởng mà đại đa số dân Việt biết tới. Tuy số người tin theo là đông, song số người nửa tin nửa ngờ, hoặc không tin cũng không phải là ít. Sự lạm dụng những niềm tin đó cũng lắm; và khi sự lạm dụng đó tác hại cho xã hội và trở thành mê tín dị đoan thì ta phải bài trừ.

            Để tiện việc nhận xét, chúng tôi tạm xếp loại các tin tưởng ấy như sau:

A. Những tin tưởng vào cách thức tiên đoán vận mệnh tương lai

            Làm thế nào để biết được cuộc đời của mình trong tương lai sẽ ra sao, đó vẫn là mong muốn của con người muôn nơi muôn thuở. Do vậy người ta tìm đủ cách để đoán biết sao cho đúng để dự liệu, để thu lợi tránh hại. Xã hội Việt Nam xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hoá học thuật Trung Hoa nên ngoài những tin tưởng vốn có từ lâu đời (khó mà phân biệt được), dân ta cũng tin theo những cách tìm đoán tương lai của người Trung Hoa và ảnh hưởng của những tin tưởng đó nhiều khi rất lớn lao trong đời sống xã hội. Chúng tôi chỉ xin bàn đến những điều tin tưởng phổ biến hơn cả.

  1. Số tử vi

Số tử vi là môn học có mục đích tiên đoán vận mệnh của từng cá nhân trong mối liên hệ của cá nhân đó với gia đình và xã hội. Ngay khi một đứa bé vừa ra đời, cha mẹ nó đã lấy giờ, ngày, tháng, năm sinh (theo âm lịch) để cho thầy số lấy cho nó một lá số tử vi và đoán vận mệnh của nó, trước hết là xem nó có được khô đầu khô sọ không (nuôi được đến trưởng thành mà không yểu vong), và nếu nuôi được thì cuộc đời của nó sẽ ra sao: từ cá tính, khả năng, khuynh hướng bẩm sinh đến cuộc đời riêng của nó (hai cung mệnh và thân), cuộc đời của nó trong mối liên hệ với gia đình (cha mẹ: cung phụ mẫu, anh chị em ruột: cung bào), với tiểu gia đình (vợ, chồng: cung phu thê, con: cung tử tức) và với xã hội (bạn bè, người giúp việc: cung nô bộc, mọi hoàn cảnh gặp trong cuộc đời: cung thiên di), những điều được và mất (tiền bạc: cung tài bạch, nhà cửa ruộng vườn: cung điền trạch), nghề nghiệp và bước đường công danh (cung quan lộc); sau đó là những biến cố mà con người ta phải quan tâm lo lắng nhiều là hoạn nạn và bệnh tật (cung tật ách). Cuối cùng là niềm tin về nghiệp tiền kiếp của bản thân và phần phúc đức mà ông bà cha mẹ để lại cho (cung phúc đức).

            Khoa tử vi được xây dựng trên nền tảng Dịch học trong triết học Trung Hoa (thuỷ tổ khai sáng là Trần Đoàn, nhà lí số học nổi tiếng đời Tống) với hai yếu tố đầu tiên của vũ trụ là âmdương vừa đối nghịch vừa bổ túc điều hoà lẫn nhau và năm nguyên tố căn bản là ngũ hành tương sinh tương khắc: kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ ứng dụng vào những việc xẩy ra trong đời người theo quan niệm “thiên nhân tương dữ”: con người sinh ra trong thời điểm ấy, trong hoàn cảnh gia đình và xã hội ấy là phải chịu ảnh hưởng như thế của vũ trụ (3), của gia đình và xã hội, đồng thời cũng có thể tác động phản hồi lại hoàn cảnh. Tất cả tác động ảnh hưởng qua lại ấy tạo nên một dòng sự việc của cuộc đời một con người mà ta có thể đoán trước khi nhìn vào lá số tử vi của người ấy. Cho nên lá số tử vi được dùng trong suốt cuộc đời một con người, mỗi khi có việc hệ trọng đều được đem ra tham khảo như một yếu tố cân nhắc ─ có khi rất quan trọng ─ trước khi quyết định.

            Dầu có cơ sở lí luận dựa trên Dịch học, các nhà tử vi khi đoán số cũng phải dựa nhiều vào kinh nghiệm thực tế như vào lá số và cuộc đời của những người đã qua, nhất là những danh nhân. Nhưng rồi cũng có những vấn nan không dễ giải đáp như vấn đề những người sinh đôi, sinh ba…, sự sai biệt về múi giờ trên trái đất: trong một phút đồng hồ trên hành tinh này có bao đứa trẻ ra đời, nhưng ở chỗ này là giờ này, ở chỗ khác lại là giờ khác.

            Mức độ tin tưởng vào số tử vi ở mỗi người cũng khác nhau tuỳ theo kinh nghiệm riêng. Người này ngẫm thấy những việc đã và đang xẩy ra trong đời mình đúng với những điều được đoán trước trong số tử vi của mình, đúng đến từng chi tiết, nên tin hoàn toàn; từ đó mọi quyết định trong công việc đều dựa vào số tử vi (4). Người kia thấy số tử vi của mình chỉ đúng những việc lớn, những nét đại cương, nên chỉ tin một phần. Người khác thì thấy sai nhiều đúng ít, nếu đúng thì chắc cũng là tình cờ, nên không tin. Cũng có người tin vào khoa tử vi, nhưng cho rằng đoán số mà không đúng thì một là lá số lấy sai giờ, hai là thầy đoán chưa tinh. Phần nhiều các thầy tử vi một là khéo dò tâm lí thân chủ mà đoán dựa nên những việc đã qua thì đoán trúng phóc, còn về tương lai ─ đây mới là mục đích của khoa tử vi ─ thì thấy cũng chỉ nói một cách tổng quát, còn đúng hay sai thì phải chờ xem.

            Người bình dân Việt Nam vốn ưa châm biếm, cũng đã từng giễu thầy số nói dựa đoán mò như sau:

Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ba mươi tết có thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông;
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. (ca dao)

Bói toán

Niềm tin tuyệt đối vào số tử vi sẽ biến thành niềm tin vào thuyết định mệnh: số phận mỗi con người đã do Trời định trước rồi (nên cũng gọi là thuyết tiền định), con người như một thứ trò chơi của Tạo Hoá, đôi khi được ví như một đứa trẻ (Hoá nhi) nghịch ngợm tinh ranh, quái ác nữa, gây ra mọi cảnh đau khổ cho con người để vui cười. Đó là điều tin tưởng của nàng cung nữ trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của Nguyễn Gia Thiều:

Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi;
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
(…)
Quyền hoạ phúc Trời tranh mất cả,
Món tiện nghi chẳng trả phần ai,
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

            Nhân sinh quan này như vậy cho là con người hoàn toàn không có tự do về cuộc đời của mình, nó sẽ đưa đến hậu quả là thái độ tiêu cực, con người chẳng cần tranh đấu làm gì vô ích, chỉ việc chờ thời đợi số (5). Quan niệm này dĩ nhiên là sai, và còn nguy hiểm nữa, vì nó khiến con người thụ động, tệ hơn nữa là vô trách nhiệm trước mọi hành vi của mình và trước mọi biến cố của xã hội.

            Song bác bỏ hẳn, bảo rằng số tử vi hoàn toàn sai, đó chỉ là một trò chơi trí óc, không hơn không kém, còn đời người hoàn toàn do con người độc lập tự tạo nên, hoặc chỉ là một chuỗi những sự việc tình cờ nối tiếp nhau xẩy diễn thì cũng là một nhận định võ đoán, ném hết kinh nghiệm của cổ nhân vào xọt rác.

            Thái độ mà chúng tôi nghĩ rằng thích đáng là coi số tử vi như một bức sơ đồ về cuộc đời của mỗi cá nhân. Sơ đồ chỉ phác ra những nét đại cương, còn chi tiết có thể thay đổi. Hãy tạm ví số tử vi như sơ đồ căn nhà cha mẹ ta đang xây để chia tài sản cho ta trong khi ta còn vị thành niên, chưa tự lập. Căn nhà đó ở trên địa điểm nào, diện tích bao nhiêu, cao bao nhiêu tầng, sân trước vườn sau bố trí thế nào… Đó là điều ta không thể thay đổi được vì là việc đã và đang hình thành. Nhưng sau này khi ta đã trưởng thành, hoàn toàn tự lập và làm chủ căn nhà, ta có thể thay đổi thêm bớt chi tiết của căn nhà ấy. Chẳng hạn mở rộng thêm một vài căn phòng, trang trí xếp đặt lại, sắm thêm đồ mới v.v…, tóm lại là ta làm cho căn nhà dần dần thêm đẹp, thêm tiện nghi tuỳ theo sự cố gắng làm việc, dành dụm tiền bạc của ta.

            Song ai vẽ ra sơ đồ ngôi nhà, định địa điểm, tầm vóc và các chi tiết khác của nó? Dĩ nhiên khởi đầu là cha mẹ ta, nhưng sau đó còn phải kể đến ý kiến của ông kiến trúc sư, của bao người thân quen như ông bà, chú bác, cô dì, bạn bè… mà cha mẹ ta tham khảo trước khi quyết định thực hiện việc xây nhà. Chuyển về đời người thì ai định rằng ta sinh vào gia đình này, làm con cái, anh chị em, họ hàng thân thuộc của những người này? Đây là những điều đã có và cố định. Nhưng còn bao nhiêu sự việc khác tiếp theo kể từ khi ta trưởng thành thì ta có quyền lựa chọn, quyết định và thay đổi được một phần (6) như ta sẽ gặp và chọn ai làm vợ làm chồng, gặp những ai để giao du làm bầu làm bạn, ta học hành, đỗ đạt cao thấp, làm nghề gì sang hèn giàu nghèo ra sao v.v… Nhưng việc thay đổi, lựa chọn cũng phải tuỳ theo khuynh hướng tâm lí, hoàn cảnh, địa vị của ta trong xã hội; như ta là con nhà dân dã, học hành thấp kém, tài năng chẳng có gì đặc biệt thì không thể đòi cưới công chúa làm vợ, giao du với hoàng tử như bạn được.

            Giả sử là ai khác định tất cả những việc đó cho ta, thậm chí một miếng ăn, một hớp uống cũng được định sẵn từ trước (nhất ẩm nhất trác giai do tiền định):

Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định khá thương lọ là!
(Cung Oán Ngâm Khúc)

thì lại là thuyết định mệnh tuyệt đối không đáng tin tưởng rồi. Thuyết nhân quả cùng với thuyết luân hồi nghìệp báo của nhà Phật đưa lại cho ta sự giải thích thoả đáng nhất: đó là không ai khác quyết định cuộc đời của ta, mà chính ta tự quyết định. Ngôi nhà mà ta đang được ở do cha mẹ để lại chính là cái quả của cái nhân ta gieo từ kiếp trước, cũng ví như cái vốn ta tích luỹ được, để dành được nhiều thì có nhà cao cửa rộng đẹp đẽ, để dành được ít thì chỉ có nhà nhỏ đơn sơ.

            Cũng thế, kiếp trước nếu ta tu nhân tích đức nhiều thì kiếp này ta sinh vào nhà giàu sang hoặc gặp được hoàn cảnh tiến thân lên địa vị cao trong xã hội. Ngược lại, kiếp trước ta kém phúc đức hoặc gây tội thì phải sinh vào nhà nghèo hèn, hoặc không gặp được hoàn cảnh thuận lợi để tiến thân, hay tệ hơn, còn gặp tai ương hoạn nạn nữa. Đó là cái khung cố định cho cuộc đời của ta do chính ta đóng nên từ kiếp trước. Song ta có thể thay đổi một số chi tiết bên trong cái khung ấy bằng cách cố gắng sống thiện làm lành để chuyển nghiệp từ xấu sang tốt có thể là ngay từ trong kiếp này (7).

            Tóm lại, ta có thể tin một phần vào số tử vi như là bảng phác hoạ những nét chính của cuộc đời ta. Còn một phần cũng khá quan trọng của cuộc đời ta là do chính ta ở kiếp này đây định đoạt (7). Như vậy con người vẫn có tự do và do đó có trách nhiệm về cuộc đời của mình; và ý nghĩa phong phú, sâu sắc của cuộc đời ta là ở chỗ đó. Nó vẫn có một phần bất ngờ gây hứng thú là ta nhận được cái quả của cái nhân ta đã gieo từ kiếp trước(8) và một phần ta có thể chủ động đoán trước được vì là cái quả của cái nhân ta gieo ở ngay kiếp này.

            Cho nên các nhà tử vi học dù giỏi đến đâu cũng không thể đoán được cái phần do con người tự do định đoạt (9) và về cái phần bất ngờ ấy, họ vừa khuyên vừa an ủi chúng ta bằng câu “đức năng thắng số” nếu thấy trong lá số tử vi của chúng ta có phần nào đó xấu.

            Cuộc đời mỗi người thường được chia làm ba giai đoạn chính: tiền vận là từ lúc còn nhỏ đến tuổi thanh niên, trung vận là từ lớp tuổi chín chắn cho đến lúc xấp xỉ về già và hậu vận là tuổi già cho đến lúc chết. Người được sung sướng suốt cả cuộc đời thì hiếm vì phải có phúc đức lớn lắm. Còn thì ai cũng phải có một giai đoạn nào đó khổ sở vất vả. Mà người nào cũng muốn được hậu vận tốt vì lúc về già, sức lực đã mòn mỏi, cần được nghỉ ngơi trước khi chết; còn tiền vận có gian nan thì tuổi trẻ huyết khí sung mãn phương cương, có thể tranh đấu vượt qua được.

            Câu “đức năng thắng số” cũng là để khuyên ta gieo nhân lành ở tiền vận để có thể hưởng quả tốt ở hậu vận. Đây cũng là ý nghĩa của hai câu “Có Trời mà cũng tại ta” và “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” mà Nguyễn Du dùng để cắt nghĩa hậu vận của cuộc đời Thuý Kiều: lẽ ra nàng phải chết ở sông Tiền Đường là để trả xong nghiệp báo xấu của kiếp trước, thế nhưng nhờ nàng có thiện tâm, luôn luôn phấn đấu sống đúng với đạo lí làm người mặc dầu chịu thiệt chịu khổ, như thế là nàng đã gieo được nhân lành nên chuyển được nghiệp từ xấu sang tốt. Nhờ vậy nàng được vớt lên, trở về tái hợp với người yêu cũ, hưởng sung sướng quãng đời còn lại.

2. Tướng người

Khoa nhân tướng, theo nhiều người, còn đúng hơn khoa tử vi nữa. Vì rõ ràng ngoại hình tự nhiên của một con người không thể nào giống một trăm phần trăm với một người thứ hai, dù đó là anh chị em sinh đôi đi nữa. Còn về khoa tử vi thì trong một giây đồng hồ trên trái đất này có bao nhiêu hài nhi cất tiếng khóc chào đời?

            Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhân hiền tại mạo, trắng gạo thì ngon cơm”, ngoại hình của một con người là sự biểu hiện cái bản ngã nằm sâu kín bên trong con người đó. Một người bình thường có thể dùng kinh nghiệm cộng với trực giác có độ bén nhậy của mình mà xét đoán một người khác khi mới gặp lần đầu để lựa chọn cách cư xử với người kia cho thích hợp. Theo câu tục ngữ trên thì một người có diện mạo khôi ngô, thân hình cân đối, lời nói ─ kể cả tiếng nói lẫn lời văn ─ dễ nghe, dáng điệu đàng hoàng chững chạc thưòng là người ngay thẳng tốt bụng, giao du hợp tác được. Ngược lại, một người diện mạo dữ tợn, thoạt nhìn đã thấy sợ, đàn ông thì tiếng nói chát chúa như đập vào tai, đàn bà thì the thé chua như giấm, cử chỉ dáng điệu thô lỗ sỗ sàng thường là người bất hảo, cần đề phòng hoặc tránh xa.

            Một vài bộ phận, đặc biệt là trên khuôn mặt, vì mặt là bộ phân chính yếu của một người để người khác nhận ra, có thể biểu lộ ngay cái cá tính, cái đặc trưng tâm lí, cái khung tinh thần của người ấy. Thí dụ một người nam trán cao phẳng, mắt nhiều lòng đen, sáng (10) là người thông minh biết rộng; trái lại một người trán thấp lè tè, mắt lơ đờ tối tăm là người chậm hiểu, người mắt sâu xếch ngược, lòng trắng nhiều, lông mày rậm, cộng thêm môi thâm xì là người ác v.v… Một người nữ mà trán cao, lại thêm hai gò má cũng cao nữa thì tuy thông minh, nhưng “cao số” như vất vả về đường chồng con.

            Một người có dáng điệu khoan thai, cử chỉ từ tốn, nói năng hoà nhã, nam thì tiếng to vang, nữ thì tiếng êm dịu là người sang cả, cuộc đời sẽ thành công sung sướng. Trái lại, một người cử chỉ dáng điệu lúc nào cũng lật đật vội vã, ấy là người phải lo toan vì cuộc đời gặp nhiều rắc rối sóng gió (11). Ngoài ra còn vô số chi tiết để đoán tướng người mà chỉ là kiến thức dựa vào kinh nghiệm thông thường như một số câu ca dao, tục ngữ:

Những người ti hí mắt lươn,
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
Những người thắt đáy lưng ong,
Đã khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.

hoặc “Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dầy môi hay ăn vụng”…, còn đi sâu vào chi tiết của khoa nhân tướng học thì lại thuộc phạm vi chuyên môn rồi.

            Dĩ nhiên qui tắc nào cũng có ngoại lệ. Trong tướng người thì ngoại lệ cũng không ít. Không kể một vài trường hợp ẩn tướng hiếm hoi (12), tâm lí con người cũng nhiều khi phức tạp. Do đó một người có tướng dữ có thể tính tình nóng nẩy, nhưng tâm địa lại rất ngay thẳng bộc trực; một người cử chỉ từ tốn, nói năng ôn tồn nhỏ nhẹ, nhưng rất có thể tâm địa lại hiểm độc; cái dáng vẻ bề ngoài lúc ấy lại là cái hình thức đẹp đẽ nguỵ trang một cá tính xấu xa bên trong; con người như vậy nguy hiểm hơn vì dễ dùng cái “tốt mã” ấy để lừa người khác, nhất là những kẻ nhẹ dạ thiếu kinh nghiệm trường đời. Đó là trường hợp gia đình Thuý Kiều bị Mã Giám Sinh lừa, rối sau đó Thuý Kiều còn bị Sở Khanh, Bạc Hạnh, Bạc bà lừa. Cho nên người ta cảnh giác nhau “biết người, biết mặt, biết lòng làm sao (13), hoặc:

Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng! (14) (ca dao)

và cách chắc chắn nhất để biết rõ một người, để kiểm nghiệm cho việc xem tướng buổi sơ ngộ là đợi thời gian trả lời:

Thức khuya mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết là người có nhân. (ca dao)

            Vậy khoa xét đoán tướng người có mức độ đáng tin cây như thế nào? Cũng như khoa tử vi, khoa nhân tướng có mức độ chính xác tương đối, dầu mức độ ấy cao hơn khoa tử vi. Và cũng dựa vào thuyết nghiệp báo, ta tin rằng một con người sinh vào cõi đời này là do cái nghiệp từ những kiếp trước. Cái tiền nghiệp ấy định khuôn khổ tổng quát cho cuộc đời người ấy vì đó là những nghiệp quả: người ấy sinh ra trong hoàn cảnh gia đình, xã hội này, có tướng mạo thế kia, xấu hay tốt tuỳ theo nhân gieo từ trước.

            Nhưng rồi trong cuộc đời, con người ấy vẫn có thể lựa chọn con đường thiện hay ác để đi tuỳ theo nhận thức (khối óc) và lòng mong muốn (con tim) của mình. Nói chung khoa nhân tướng, cũng như khoa tử vi, rất coi trọng cái tâm (thiện hay ác) của con người và thừa nhận con người vẫn có phần tự do biến đổi cuộc đời mình từ xấu ra tốt hoặc ngược lại. Cho nên một người có tướng tốt mà tâm địa xấu thì hãy coi chừng, người ấy sẽ bị đoạ, cuộc đời người ấy về hậu vận sẽ bị xấu. Còn một người sinh ra mà có tướng xấu (do nghiệp từ kiếp trước) thì đừng thất vọng; hãy tu tâm sửa tính cho tốt và sống thiện làm lành để chuyển nghiệp thì hậu vận, và ngay cả tướng, sẽ xoay chuyển tốt đẹp theo. Câu “ hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sinh; hữu tướng vô tâm, tướng tòng tâm diệt” (15) cho thấy khoa nhân tướng trọng tướng tâm hơn là tướng mạo và cũng cho rằng con người có quyền tự do định đoạt cuộc đời mình bằng chính cái tâm của mình vậy.

3. Bói toán (bốc phệ)

Vẫn dựa vào thuyết “thiên nhân tương dữ”, khoa này tin tưởng rằng có sự thông đồng cảm ứng giữa con người và thiên nhiên vạn vật và con người có thể tìm cách biết trước những việc sẽ xẩy ra cho mình, nhất là những biến cố quan trọng trong thiên nhiên hay trong xã hội loài người, dù lành hay dữ cũng thường có điềm báo hiệu cũng như trước khi bệnh phát thường có các triệu chứng đi trước:

Quốc gia tương hưng, tất hữu trinh tường,
Quốc gia tương vong, tất hữu yêu nghiệt (16)

            Chẳng hạn rồng vàng hiện ra và bay lên trời là điềm lành báo trước thời kì ổn định lâu dài của nước Đại Việt dưới triều Lí với quyết định đúng của vua Lí Thái Tổ dời đô từ đất Hoa Lư chật hẹp ra thành Đại La có vị trí trung tâm và thế đất rộng rãi thuận lợi hơn. Còn những hiện tượng quái dị bất thường xuất hiện như động đất, núi lở, nước sông tự nhiên đỏ như máu v.v… là điềm gở báo trước những việc chẳng lành như vua băng, trong nước có loạn lạc, triều đại đương quyền sụp đổ…

            Song cũng có những giai đoạn lịch sử mà sự mê tín vào nhưng điềm lạ ─ chứ không phải chính những điềm lạ đó ─ gây tai hoạ cho cá nhân hay cho cả đất nước. Chẳng hạn tên Đỗ Thích nằm mơ thấy vì sao sa vào miệng, tin là điềm mình sẽ lên làm vua, mới ám sát cha con Đinh Tiên hoàng đế để rồi bị giết. Hoặc một người lính tên là Lê Vãn người giáp Cổ Hoằng, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, nghe người trong giáp nói thấy một con trâu trắng trèo lên cây muỗm bằng một lối rồi sau đó xuống bằng một lối khác. Lê Vãn đoán rằng trâu là vật dưới thấp nay lại trèo lên cao, vậy là điềm kẻ dưới leo lên địa vị cao. Sử sách không cho biết chi tiết này, nhưng có lẽ Vãn tuổi Sửu, nên y cho là điềm ám chỉ mình, bèn tụ quân làm loạn để rồi bị dẹp tan. Đó là vào năm 1192 đời Lí Cao Tông. – (Theo Hoàng Xuân Hãn trong “Lý Thường Kiệt”, phần chú thích cuối chương XIV: Đạo Phật đời Lý)

            Thời xa xưa có các triều vua rất tin bói toán nên đặt chức quan chuyên về việc này (Thái Bốc) để mỗi khi có việc quốc gia trọng đại mà vua và triều thần lâm vào tình thế phân vân nan giải thì phải dựa vào quẻ bói mà quyết định.

            Vậy bói là tìm đến sự tương giao cảm ứng linh diệu giữa con người và vũ trụ để đoán biết trước sự việc xẩy ra hầu thu lợi tránh hại. Ứng dụng vào đời sống cá nhân thì không phải việc gì xẩy ra cũng có điềm báo trước, hoặc báo trước kịp thời cho nên người ta phải cầu tìm đến quỉ thần để “hỏi” (tức là bói) về những việc quan trọng nên làm hay không nên làm, nếu làm thì việc sẽ thành hay bại, có tai hoạ xẩy đến hay không, xẩy đến lúc nào, ở đâu, có cách nào tránh được không v.v…, vì quỉ thần linh thiêng nên biết trước các việc sẽ xẩy ra và có quyền năng giúp con người đạt được mục đích này nếu con người thành tâm cầu đến.

            Thời con người còn sống theo bộ lạc, người ta tin rằng ở mỗi bộ lạc chỉ có một vài người có đủ tư cách, khả năng “liên lạc” được với thần linh bằng những nghi thức đặc biệt để truyền mệnh lệnh của thần linh xuống cho bộ lạc và đệ lên thần linh những điều bộ lạc cầu xin: đó là những thầy mo, thầy phù thuỷ đầy quyền lực, có mối linh cảm đặc biệt và sống theo giới luật nghiêm ngặt để giữ được mối linh cảm đó. Nhưng rồi nhu cầu liên lạc với thần thánh ngày càng nhiều và người ta phải tìm ra nhiều cách “hỏi” mà không cần qua trung gian một số quá ít người. Do đó mỗi cách “hỏi” thần là một cách bói, thầy đoán quẻ bói đông lên theo nhu cầu của xã hội.

            Cũng nằm trong ảnh hưởng của Trung Hoa, cách bói chính của ta cũng là bói Dịch (17). Cách bói chính của Kinh Dịch là bói cỏ thi (18), nhưng phổ biến trong dân chúng Việt Nam là bói tiền (Kim tiền bốc) hay bói Dã Hạc (19).

            Xưa kia đời sống con người còn đơn sơ, tâm hồn con người còn chất phác, lòng tin ở các thế lực siêu phàm còn mạnh. Những con người có tâm hồn thanh cao, nếp sống giản dị đạm bạc, ít bị vật dục chi phối, lại có niềm thành tín nên có thể cảm ứng với năng lực vi diệu tiềm ẩn trong vũ trụ. Đến khi loài người tiến bộ, đời sống xã hội càng ngày càng trở nên phức tạp, trí thông minh của con người tiến theo chiều hướng khám phá, chinh phục vũ trụ để thoả mãn lòng ham muốn vô độ của mình ─ điều mà con người ngày nay gọi là những nhu cầu chính đáng càng ngày càng cao (20) ─ tất nhiên con người phải xa dần thế giới của các năng lực vi diệu tiềm ẩn nói trên, càng vi diệu càng xa vật chất (21). Từ đó khả năng thông đồng giao cảm với các năng lực vi diệu phải kém dần đi và có thể mất hẳn.

            Song nhu cầu biết trước vận mệnh tương lai vẫn còn đó, nên mới sinh ra cái cảnh người sáng đi hỏi người tối, thầy bói nói dựa đoán mò, “bói ra ma, quét nhà ra rác” hoặc như câu ca dao giễu thấy bói:

Nhà này có quái trong nhà,
 Có con chó đực cắn ra đằng mồm.

Ngoài ra còn vô số cách bói khác như bấm độn, xin xâm, bói Kiều, bói tuồng, xem chân gà (22) v.v… nhiều khi chẳng có cơ sở gì cả mà người ta cũng tin. Trong xã hội xưa, nghe theo thầy bói để quyết định những việc quan trọng, nhiều khi vì thế mà quyết định sai lầm làm hao tiền tốn của, thậm chí gây hậu quả tai hại to tát là một trong nhiều thứ mê tín dị đoan.

4. Cầu mộng, đoán mộng

Cầu mộng là cách trực tiếp hỏi thần linh và muốn được thần linh trực tiếp trả lời. Nhưng vì hai thế giới thần và người khác nhau, nên cuộc tiếp xúc phải diễn ra trong giấc mộng để thiên cơ không tiết lộ giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt mọi người; vả đây là việc riêng cá nhân. Khi có điều phân vân lưỡng lự khó giải quyết mà lại hệ trọng đến tương lai vận mệnh của mình, người ta đem lễ vật đến một đền linh thiêng, thành tâm lễ thánh và cầu xin được ứng mộng (thần hiện vào giấc mộng) để chỉ bảo cho. Như trong “Bích Câu Kì Ngộ”, Tú Uyên gặp nàng tiên ở chùa Ngọc Hồ, sau khi nàng biến đi, chàng không biết tìm nàng ở đâu, đâm ra ốm tương tư. Sau nghe lời bạn khuyên, chàng tới đền Bạch Mã cầu xin thần ứng mộng. Quả nhiên thần chỉ cho chàng mua được bức tranh vẽ chân dung nàng tiên đem về treo trong nhà; sau đó nàng từ trong tranh hiện ra kết duyên cùng chàng.

            Về những giấc mơ giấc mộng tự nhiên có trong giấc ngủ (không phải cầu), nhiều khi người ta cũng tin đó là những điềm báo trước việc sẽ xẩy ra: giấc mơ tốt lành thì việc xẩy ra sẽ tốt lành, giấc mơ dữ (ác mộng) khiến ta sợ hãi buồn khổ thì việc xẩy ra sẽ là xấu. Còn những giấc mơ khó hiểu thì phải nhờ người có kiến thức uyên bác, suy luận giỏi, hoặc ông thầy chuyến đoán điềm giải mộng giải đoán cho thì mới hiểu được. Ngôi chùa Một Cột dựng năm 1049 đời vua Lí Thái Tông chính là kết quả của việc đoán mộng: trước đó nhà vua mộng được Phật Bà Quan Âm dắt lên toà sen. Tỉnh dậy, vua kể chuyện cho triều thần nghe, có người đoán là điềm gở (vua chết). Sư Thiện Tuệ khuyên xây chùa trên một cột đá ở giữa hồ, đặt toà sen có tượng Quan Âm như thấy trong mộng, rồi chư tăng đi vòng quanh đài cầu cho vua sống lâu. Từ đó có tên là chùa Diên Hựu.

            Truyện xưa tích cũ cũng có đầy dẫy những giấc mộng báo trước việc xẩy ra, dĩ nhiên là đúng mới được ghi lại. Trong Truyện Kiều, nàng Kiều ba lần mơ thấy Đạm Tiên hiện ra cho biết trước cảnh đời mà nàng sẽ trải qua, và đều đúng cả. Kẻ hậu sinh làm sao bác hết được những câu chuyện đó của thời đại xa xưa mà bảo rằng tất cả đều là tưởng tượng, là mê tín dị đoan? Cho nên ta phải nghĩ rằng người xưa sống nhiều với thế giới tâm linh siêu hình nên dễ cảm ứng với thế giới ấy. Còn trong thời đại nào, xã hội nào con người quá thiên trọng về vật dục, chỉ tin những gì có thật của thế giới vật chất thì rất khó có những cảm ứng siêu vật chất. Do đó ngày nay người ta chỉ có thể cắt nghĩa phần nào những giấc mơ giấc mộng có thể là do con người quá khát khao, quá nghĩ tưởng đến sự vật, sự việc gì thì ảnh tượng của sự vật sự việc ấy hiện ra trong giấc ngủ (tiềm thức). Còn nếu giấc mơ giấc mộng ấy mà đúng với sự việc xẩy ra thì một là tình cờ, hai là do ta cố gắng thực hiện những điều ta mong ước.

5. Sấm kí, đồng dao

Sấm là những câu tiên đoán thời sự của các bậc tiên tri, thông thường là về những biến cố quan trọng trong nước. Những câu tự nhiên được dân chúng loan truyền rộng rãi mà không rõ xuất xứ thì người ta càng tin ở nguồn gốc thần bí của nó. Trời muốn mượn cửa miệng con người để báo trước việc sẽ xẩy ra vì lời nói bao giờ cũng dễ đoán dễ hiểu hơn là những hiện tượng dị thường (điềm lành, điềm dữ). Sử chép trước khi hai cha con vua Đinh Tiên hoàng bị ám sát đã có câu sấm:

Đỗ Thích thí Đinh Đinh →   Đỗ Thích giết hai Đinh
Lê gia xuất thánh minh  →   Họ Lê có vua sáng xuất hiện
Cạnh đầu đa hoành nhi →   – nghĩa không rõ –
Đạo lộ tuyệt nhân hành →    Đường xá hết người đi
Thập nhị xưng đại vương → Mười hai xưng là đại vương (?)
Thập ác vô nhất thiện → Mười điều ác, không một điều lành
Thập bát tử đăng tiên → Họ Lí (ghép chữ thập bát tử) lên tiên
Kế đô thập nhị thiên   → – nghĩa không rõ –

            Trong 8 câu trên thì câu 1 và 2 rõ nhất, câu 3 và 8 không rõ nghĩa, câu 4 không biết chỉ điều gì, câu 7 chỉ rõ khi biến cố đã xẩy ra (họ Lí lên làm vua), câu 5 và 6 chỉ đoán được lờ mờ: vua Đinh ở ngôi 12 năm, chỉ dùng luật bạo tàn trị nước.

            Đến khi bạo quân Lê Ngoạ triều sắp chết, cây đa chùa làng Cổ Pháp bị sét đánh tróc vỏ cây để lộ trong thân cây có hàng chữ đúng là câu sấm như sau:

            Thụ căn diểu diểu       →       Rễ cây thăm thẳm
            Mộc biểu thanh thanh  →       Vỏ cây xanh xanh
            Hoà đao mộc lạc          →       Cây hoà đao rụng (ghép chữ” hoà, đao, mộc” lạc, chỉ nhà Tiền Lê mất)                 
            Thập bát tử thành       →        Mười tám hạt thành (ghép chữ thập bát tử, chỉ nhà Lí lên)
            Đông A nhập địa        →        Đông A vào đất (ghép chữ Đông A, chỉ nhà Trần lên)
            Dị mộc tái sinh           →        Cây khác sống lại (nhà Hậu Lê lên)
            Chấn cung hiện nhật  →        Cung Chấn mọc mặt trời (nhà Mạc lên?)
            Đoài cung ẩn tinh       →        Cung Đoài lặn sao (nhà Tây Sơn mất?)
            Lục thất niên gian       →        Khoảng sáu bảy năm
            Thiên hạ thái bình      →        Khắp nơi sẽ được thái bình.

            Những câu được đoán ra nghĩa theo lối chiết tự (tách hay ghép các phần của chữ hán để đoán: 禾 刂 木 ghép thành chữ 梨 Lê,  十 八  子 ghép thành chữ 李 Lí,  東  阿  

(chữ “A”  阿 lấy bộ “phụ”阝) ghép thành chữ  陳 Trần.  

            Làng Cổ Pháp là quê của sư Vạn Hạnh (còn có tên là làng Dịch Bảng, sau đổi là Đình Bảng, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ngay từ thời vua Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh đã nổi tiếng là bậc tiên tri, mỗi lời nói ra là một câu sấm. Như khi vua Đại Hành chuẩn bị binh mã chống quân Tống xâm lăng, có hỏi sư, thì sư cho biết quân ta tất chiến thắng, quân giặc phải thua chạy. Quả y như lời.

            Sau khi Ngoạ triều chết, cuộc chuyển quyền từ nhà Tiền Lê sang cho Lí Công Uẩn diễn ra êm thắm hẳn là có sự vận động tuyên truyền từ trước của sư Vạn Hanh, vì ngoài bài sấm kể trên mà người ta ngờ là cũng do chính ông làm ra, tiểu sử của sư chép trong “Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục” cũng cho biết là trước cuộc chính biến mấy ngày, sư đã treo bảng ở ngoài đường viết mấy câu:

Tật Lê trầm Bắc thuỷ  →        Cây tật lê chìm biển Bắc
Lí tử thụ Nam thiên    →        Hạt Lí mọc trời Nam
Tứ phương can qua tĩnh →    Bốn phương dẹp gươm dáo
Bát biểu hạ bình yên   →        Tám cõi vui hưởng bình an

            Sau này vua Lí Nhân Tông làm thơ ca tụng sư, cũng nhắc đến tài tiên tri của ông:

Vạn Hạnh dung tam tế       →Thiền sư học rộng bao la,
Ưng phù cổ sấm thi            → Giữ mình hợp phép, sấm ra ngoài lời
Hương quan danh Cổ Pháp → Quê hương Cổ Pháp danh ngời
Trụ tích trấn vương kì       → Tháp bia đứng vững muôn đời đế đô  (bản dịch trích trong “Việt Nam Phật Giáo Sử Lược” của Thích Mật Thể).

            Những câu sấm có hình thức bài văn vần ngắn gọn và được loan truyền bằng cách dạy cho trẻ con hát được gọi là đồng dao, những câu này có hoặc không có xuất xứ. Chuyện vua Lí Thần Tông (tức Từ Đạo Hạnh thác sinh) mắc bệnh hoá cọp, danh y trong nước đều bó tay, sau sư Nguyễn Minh Không (bạn cùng tu với Đạo Hạnh, vốn có hẹn trước) dạy trẻ con hát:

Tập tầm vông! Tập tầm vông!
Có ông Nguyễn Minh Không
Chữa được bệnh thiên tử!

rồi được mời vào cung chữa khỏi bệnh cho nhà vua. Hoặc như bài ca hát đầu trò chơi trẻ con “đi trốn đi tìm” cuối đời Nguyễn mở đầu bằng câu “chi chi chành chành” được ông Trương Tửu trong cuốn “Kinh Thi Việt Nam” theo lời một cụ già thì là một câu sấm, đúng ra thì như sau:

Chu tri rành rành       →        Báo cho mọi người rõ
Cái đanh nổ lửa          →        Pháp bắn vào Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng
Con ngựa đứt cương   →        Vua Tự Đức thăng hà, triều đình Huế rối loạn, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền
Ba vương tập đế          →        Ba vua Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc tiếp nhau lên ngôi và cùng bị giết
Cấp kế đi tìm              →        Vua Hàm Nghi kháng Pháp ở Huế năm 1885 thất     bại, cùng Tôn Thất Thuyết đi trốn;
Pháp lùng tìm            Ú tim oà… ập! → Vua Hàm Nghi bị bắt

Nếu đầu thế kỉ XI sư Vạn Hạnh là nhà tiên tri báo trước sự mở màn kỉ nguyên độc lập hưng thịnh của quốc gia Đại Việt, thì đầu thế kỉ XVI, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri đoán biết trước thời kì rối loạn phân tranh với sự trung hưng và suy vong của các nhà Hậu Lê, Mạc, Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn. Ông được coi là nhà lí số học (23) bậc nhất của Việt Nam do tiếp thu được tinh hoa của khoa lí số học Trung Hoa (24) và được gán cho là tác giả những câu sấm báo trước những biến cố lịch sử của cả thế kỉ XX này nữa (tương truyền ông biết việc sẽ xẩy ra đến năm trăm năm sau). Sau đây là một số câu nói có tính cách quyết định lịch sử của ông cũng như một số câu sấm được coi là của ông mà lịch sử cho thấy là đúng.

            Nguyên vì ông đã nổi tiếng tiên tri, nên mặc dù thi đỗ và làm quan với nhà Mạc là nguỵ triều (25), Trạng Trình vẫn được các bên đối nghịch nhau kính trọng và sai sứ đến hỏi ý kiến về những việc quốc gia đại sự. Trạng Trình đã đứng vững ở vị trí trung lập, đúng hơn là vượt lên trên các phe phái tranh chấp để chỉ bảo điều lợi hại cho bất cứ bên nào tới hỏi ý kiến mà vẫn không làm hại tới bên kia. Đó cũng là lí do tại sao ông không đáp thẳng câu hỏi và trực tiếp trả lời sứ giả, mà chỉ trả lời gián tiếp bằng ngụ ngữ.

  • Lời khuyên Nguyễn Hoàng: Sau khi Nguyễn Kim, vị chủ tướng xướng xuất việc khôi phục nhà Lê bị viên tướng trá hàng của nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, theo tục thế tập, binh quyền đáng lẽ về tay người con lớn là Nguyễn Uông thì người con rể là Trịnh Kiểm chiếm giữ hết. Cuộc tranh chấp xẩy ra và Kiểm giết Uông. Em Uông là Hoàng biết mình thế yếu muốn tránh hoạ, nhưng không biết làm sao bèn sai người đến vấn kế Trạng Trình. Ông không trả lời thẳng, nhân đứng trước hòn non bộ có đàn kiến đang bò, ông bèn chỉ vào đó mà nói: “Một dải Hoành sơn kia có thể dung thân được muôn đời”. Sứ giả hiểu ý. Nguyễn Hoàng bèn xin vào trấn đất Thuận Hoá, sau quả nhiên lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn.
  • Lời khuyên Trịnh Kiểm: Vua Lê Trung Tông mất không có con, Trịnh Kiểm lúc ấy nắm giữ hết binh quyền, đã có ý tự lập làm vua, nhưng sợ lòng người không phục; vả lại nhà Mạc vẫn đang còn đó, Kiểm bèn sai sứ đến hỏi Trạng Trình. Ông không trả lời thẳng, chỉ quay ra bảo đày tớ: “Năm nay mất mùa, lúa không tốt, chúng mày hãy lấy thóc giống cũ ra mà gieo mạ”. Rồi ông sai tiểu đồng ra quét dọn chùa để đi lễ và nói: “Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”. Sứ giả về nói lại, Trịnh Kiểm hiểu ý bèn tìm dòng dõi nhà Lê lập lên nối ngôi và bỏ ý định tiếm ngôi.
  • Lời khuyên vua Mạc: Nhà Lê trung hưng mỗi ngày một mạnh, còn nhà Mạc mỗi ngày một yếu đi, vua Mạc Mậu Hợp sai sứ đến hỏi, Trạng Trình khuyên: “Đất Cao bằng kia tuy nhỏ hẹp, song cũng dung thân được vài đời”. Quả nhiên con cháu nhà Mạc về sau thua chạy lên Cao Bằng, nhờ nhà Minh can thiệp để vua Lê chúa Trịnh cho sống yên thân được ba đời nữa. Đây là câu trả lời trực tiếp vì dù sao thì Trạng Trình cũng đã là bề tôi nhà Mạc, lại sống trên đất nhà Mạc; vả lại lúc ấy ông cũng sắp mất rồi, nên cứ việc nói thẳng.

            Những câu sấm được coi là của Trạng Trình mà lịch sử cho thấy là đúng:

  • Số phận hai nhà Lê, Trịnh gắn liền nhau:

                        Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.

  • Nhà Tây Sơn do Nguyễn Nhạc lãnh đạo nổi lên diệt Lê, Trịnh ở Bắc, đuổi Nguyễn ở Nam:

                        Hà thời biện lại vi vương,
                        Thử thời Bắc tận, Nam trường xuất bôn.

            Nguyễn Nhạc vốn xuất thân là một viên biện lại thu thuế, đánh bạc thua mất hết tiền thuế, sợ tội bỏ trốn. Nhân chính quyền miền Nam thối nát vì Trương Phúc Loan chuyên quyền, Nhạc cùng hai em là Huệ và Lữ tụ tập đồ đảng nổi lên. Sau nhờ tài thao lược của Nguyễn Huệ mà chúa Nguyễn miền Nam phải bỏ chạy dài, còn miền Bắc thì trước nhà Trịnh, sau nhà Lê đều sụp đổ cả.

  • Vận số ngắn ngủi của nhà Tây Sơn:

                        Đoài cung một sớm đổi thay,
                        Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.                  

                        Đầu cha lộn xuống chân con,
                        Mười bốn năm tròn, hết số thì thôi.

            Đoài cung (phương Tây) chỉ nhà Tây Sơn chủ yếu là vua Quang Trung Nguyễn Huệ với nhiều chiến công oanh liệt. Sau khi Nguyễn Huệ mất thì vua Thái Đức Nguyễn Nhạc (cung Chấn thuộc phương Đông chỉ người anh cả) vì bất tài, bị quân Nguyễn Ánh vây đánh kinh đô Qui Nhơn, phải cầu cứu với cháu là vua Cảnh Thịnh (con vua Quang Trung). Các tướng của Cảnh Thịnh giải vây cho Qui Nhơn xong liền chiếm giữ luôn thành trì. Nhạc tức quá thổ huyết mà chết. Kể từ vua Quang Trung lên ngôi (1788), chữ “quang” 光 có chữ “tiểu” 小 trên đầu, đến khi Cảnh Thịnh mất ngôi (1802), chữ “cảnh 景 có chữ “tiểu” lộn xuống dưới chân, là đúng mười bốn năm.

            Sự kiện cả thế giới lâu lâu có được một vài người đặc biệt có thứ linh cảm vi diệu biết trước thời điểm xẩy ra các biến cố lịch sử quan trọng là điều có thể có. Những lời khuyên của Trạng Trình chỉ bảo một số nhân vật lịch sử đương thời trước hết là lời khuyên của bậc thức giả nắm vững tình hình đất nước và thực trạng của các thế lực tranh chấp lúc ấy. Giải pháp của ông chỉ bày cho họ theo, trong mỗi hoàn cảnh vừa hợp tình, hợp đạo lí, lại tránh được hại mà thu lợi tối đa, không thể có giải pháp hay hơn trong tình thế ấy: thí dụ ông khuyên Trịnh Kiểm hãy giữ phận bề tôi, đừng tiếm ngôi vua thì sẽ không mất chính nghĩa (hãy trông gương họ Mạc) mà vẫn giữ được thực quyền; khuyên Nguyễn Hoàng hãy tránh xa hang hùm để tính kế lâu dài.

            Ông cũng đánh giá được các nhân vật thuộc các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn đương thời không ai có đủ tài năng đức độ vượt trội để có thể thu lòng người về một mối mà thống nhất quốc gia, nên sự phân tranh tất phải xẩy ra.

            Còn những câu đoán những việc lâu về sau, khi ông đã ra người thiên cổ, thì cũng có câu là của ông, nhưng cũng không thể loại bỏ sự thể có nhiều câu là do người đời sau đặt ra để chỉ những việc đã xẩy ra, rồi gán cho ông. Thường xung quanh tiểu sử các danh nhân hay có nhiều giai thoại để tôn vinh các vị ấy. Điều đó không có gì hại, miễn là để cho kẻ hậu sinh có quyền dè dặt và đừng bắt họ phải tin những việc kể trong giai thoại là sự thật một trăm phần trăm (26).

6. Các cách chiêm nghiệm (xin đọc thêm “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính).

            Vẫn căn cứ vào quan niệm “thiên nhân tương dữ”, người xưa cho rằng nhiều hiện tượng xẩy ra trong vũ trụ hoặc xẩy ra ở ngay con người (thí dụ máy mắt, tự nhiên thấy sốt ruột, hồi hộp, cắn phải môi v.v…) là những điềm báo trước những việc lành hay dữ hoặc bình thường sẽ xẩy ra. Dĩ nhiên phải do kinh nghiệm lâu đời qui nạp đúc kết lại cổ nhân mới phát biểu thành điều tin tưởng, dẫu không trở nên qui luật, nhưng cũng đủ cho con cháu dự đoán mà mừng đón những việc lành hoặc phòng tránh tai hoạ.

            Các cách chiêm nghiệm nhiều khi thiếu cơ sở khoa học, nhưng có những điều thấy đúng nhiều lần thì ta cứ tin theo, vì nếu cứ phòng xa dù cho không đúng cũng chẳng hại gì. Vả lại cũng không phải là không có những điều khả thủ. Thí dụ các chiêm nghiệm về thiên văn thời tiết rất quan trọng đối với nghề nông nghề biển của dân ta như khi thấy đàn kiến lũ lượt tha trứng từ chỗ thấp lên chỗ cao là sắp có mưa lụt, trời đang hạn mà cóc nghiến răng (kêu) là trời sắp mưa (dựa vào bản năng loài vật), hoặc như các câu:

            – Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
            – Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa.
            – Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa,
            – Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
            – Thâm đông, hồng tây, dựng may,
            – Ai ơi ở lại ba ngày hãy đi. (câu sau này có nghĩa là: phương đông có mây đen, phương tây có ráng đỏ, gió heo may nổi lên; ấy là sắp có bão trong vòng ba ngày. Ai định đi đâu xa, nhất là đi đường thuỷ, thì hãy hoãn lại, kẻo gặp bão giữa đường).

            Hoặc những điều mà tỉ lệ đúng quá ít hoặc không kiểm nghiệm được thì lâu dần người ta cũng không tin, thậm chí không để ý đến nữa. Như ngắm trăng tối mồng tám âm lịch, đường kính của hình bán nguyệt hơi lồi lên thì gạo trong tháng sẽ hơn (rẻ, hạ), còn hơi lõm xuống thì gạo kém (đắt), còn phẳng thì giá gạo bình thường; hoặc đời sống đã thay đổi, những hiện tượng hiếm khi xẩy ra như nhà ở thành thị có điện thì khó có cảnh:

                        Thứ nhất đom đóm vào nhà,
                        Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn.

(đây là điềm tốt báo trước việc vui mừng hoặc có tài lợi: chuột rúc là tiếng chuột chù kêu liên hồi nghe vui tai, hoa đèn là bấc ngọn đèn dầu không lụi ngay mà giữ đỏ được lâu).

hoặc ngay ở nhà quê khi xưa, con chim khách (thước) đến đậu trước nhà mà kêu là sắp có khách từ xa tới cũng lâu lâu mới đúng, cho nên người chinh phụ mong chồng mới than:

                        Ngoài rèm thước chẳng mách tin…

nay ở thành phố nhà cửa san sát, loài chim kia đâu còn đất sống nữa?

B. Những điều được tin theo để tránh rủi cầu may

  1. Ngày giờ tốt xấu

Cũng lập căn trên quan niệm “thiên nhân tương dữ”, người ta tin rằng sự vận hành của vũ trụ ─ tiêu biểu là sự vận hành của các vì tinh tú ─ có ảnh hưởng nhiều khi có tính cách quyết định đến vận mạng và đến từng việc của con người. Bởi vậy một việc làm vào thời điểm này thì thành công, mà làm vào thời điểm kia thì thất bại. Cho nên người ta phải kén chọn năm, tháng, ngày, và cả giờ nữa để bắt đầu mọi việc quan trọng như khởi công làm nhà, quan trọng nhất là giờ đặt cây thượng lương (cây xà dọc chính nằm chính giữa nóc, cũng là đỉnh cao nhất của ngôi nhà), dựng vợ gả chồng, quan trọng nhất là ngày giờ nhà trai khởi hành đến nhà gái đón dâu, giờ dâu ra khỏi nhà gái và về đến nhà chồng; đưa đám ma: phải chọn ngày giờ liệm (bọc thi hài người chết đặt vào quan tài), động quan (bắt đầu khiêng quan tài ra khỏi nhà) đến giờ hạ huyệt; xuất hành lần đầu tiên trong năm mới, khởi hành đi làm công việc ở xa, khai trương cửa hàng v.v…

            Năm, tháng thì hợp với tuổi của từng người, nhưng ngày thì có một số tốt, xấu nhất định trong từng tháng, giờ cũng có một số tốt xấu nhất định trong ngày. Theo Phan Kế Bính trong “Việt Nam Phong Tục” thì:

                        Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Ân, Thiên Hỉ v.v… hoặc là những ngày Trực Khai, Trực Bình, Trực Mãn thì là ngày tốt; ngày nào có những hung tinh như Trùng Tang, Trùng Cửu, Thiên Hình, Nguyệt Phá v.v… hoặc là ngày Trực Nguy, Trực Phá thì là ngày xấu.

                        Kiêng nhất là Sát Chủ, Thụ Tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba gọi là ngày Nguyệt Kỵ, việc gì cũng kiêng (27) (…). Trong một năm lại có mười ba ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh. (28)

            Còn kén giờ trong ngày thì tốt nhất là giờ Hoàng Đạo. (29)

            Phê bình việc chọn ngày giờ tốt xấu, cũng Phan Kế Bính viết trong tác phẩm kể trên của ông như sau:

                        Xét phép chọn ngày, từ đời Đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày (…)

                        Đến đời sau các nhà làm âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày sao tốt, ngày sao xấu, ngày này nên làm việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ sung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem ngày kén giờ, thực là một việc phiền toái quá (…). Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở người (…). Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao?

            Thiển nghĩ việc chọn thời điểm để bắt đầu một công việc quan trọng chỉ nên xét đến những điều kiện thuận lợi có vào lúc đó hầu công việc đạt được kết quả mĩ mãn, chứ không nên chấp nê quá thành ra mê tín, và có khi chính vì thế mà hỏng việc. Thí dụ lúc chưa đủ điều kiện mà bảo là có ngày giờ tốt rồi cứ làm bừa đi thì việc tất hỏng; trái lại cơ hội tốt đến mà bảo là ngày giờ xấu rồi bỏ qua không làm thì làm sao nên việc? Càng về sau người ta càng thấy việc kén chọn ngày giờ quá kĩ là không thể theo nổi mà lại là một sự bày vẽ phiền phức vô ích nên đành phiên phiến, cốt để yên lòng mọi người, thế thôi. Có nhiều người tuy không tin ở việc chọn ngày giờ, song thấy mọi người xung quanh tin theo nên cũng không phản đối, e rằng sau này lỡ công việc gặp rủi ro thất bại thì sẽ bị đổ trách nhiệm. Rốt cuộc việc chọn ngày giờ chỉ để đáp ứng một nhu cầu tâm lí hơn là một yêu cầu thực tế của công việc. Có lẽ một số không ít những tập tục thiếu cơ sở khách quan mà vẫn tồn tại cũng do nguyên nhân tương tự. Càng về sau này càng có nhiều người chủ trương “vô sư vô sách”, ngày nào cũng là ngày giời, tiện lúc nào làm lúc ấy, miễn sao hội đủ những yếu tố để thành công là được.

2. Vía người dữ lành

Người xưa tin rằng mỗi con người có một thứ vía dữ hay lành có thể đem lại sự xui xẻo hay may mắn cho kẻ khác khi kẻ ấy gặp người này vào lúc bắt đầu làm một công việc gì quan trọng. Sự gặp gỡ ấy có thể là do tình cờ hay do sắp xếp. Thông thường một người có vía dữ hay lành là do tự nhiên, vì chẳng ai muốn mình có vía dữ để mọi người phải tránh né. Cũng có ngưới vốn có vía lành nhưng đang gặp vận xui (thí dụ đang có đại tang) thì vẫn có thể “lây cái xui” cho người khác.

            Do vậy những người có vía dữ hay đang gặp hồi đen thì hãy tránh những việc sau đây:

  • Ra khỏi nhà vào ba ngày tết (ba ngày đầu của năm mới) khiến người khác xuất hành mà gặp mình là người đầu tiên.
  • Xông nhà người khác (người đầu tiên vào nhà vào năm mới).
  • Mua mở hàng (là người đầu tiên mua hàng khi cửa hàng mới mở vào sáng sớm, vào năm mới hay vào ngày khai trương).
  • Trực tiếp hỏi thăm đứa hài nhi (thường được coi là đang ở vào thời kì quặt quẹo khó nuôi) (30)

            Ngược lại người có vía lành hoặc đang gặp vận đỏ sẽ được hân hoan tiếp đón hoặc được ân cần mời mọc làm những việc như kể trên vì người ta tin rằng người ấy sẽ đem lại sự thịnh vượng, sức khoẻ, sự đắt hàng, nói chung là sự may mắn, thành công.

            Vậy niềm tin trên đúng hay sai?

            Thiển nghĩ ở đây vấn đề tâm lí vẫn là chủ yếu. Thông thường một người được coi là có vía lành là người có ngoại hình đẹp đẽ như mặt mũi tuơi tỉnh, thân hình cân đối nở nang, nói năng hoạt bát và có tính tình dễ mến: hay giúp đỡ người khác, dễ tính trong công việc mua bán (chọn lựa hàng hoá dễ dãi, trả giá rộng rãi, không mặc cả ráo riết), hoặc người đang ở vào thời vận tốt: ông quan vừa được thăng chức, cậu học trò mới thi đỗ, nhà buôn đang phát tài… Ngoài ra còn những người mà cuộc đời là sự biểu hiện một thứ hạnh phúc hay một giá trị cao đẹp nào đó mà người đời hằng mơ ước: hoặc đạo cao đức trọng, học vấn uyên thâm, một đôi vợ chồng hoà thuận, mạnh khoẻ, con cái đề huề, một bậc thầy dạy nghề lão luyện, một ông phú hộ tốt bụng hào phóng v.v…

            Những người này thường được người ta mong đợi hay mời mọc đến mở hàng, xông nhà, khánh thành một công trình hoặc đứng chủ tế, chủ hôn… tuỳ trường hợp người mời mọc muốn cầu thứ hạnh phúc nào, thứ giá trị nào mà người được mời tiêu biểu. Thí dụ cặp vợ chồng hiếm hoi có được một đứa con trai nay cưới vợ thì thế nào cũng cố mời cho kì được một ông già mà vợ chồng còn song toàn, lại có con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại đầy đàn đứng chủ hôn hoặc ít nhất cũng nài được ông ấy trải chiếu (lần đầu tiên) cho bộ giường mới của cặp tân hôn.

            Trái lại một người bị coi là có vía dữ thường có ngoại hình dữ tợn, xấu xí; thí dụ mắt trắng dã, sâu hoắm lại xếch ngược (tướng ác), hoặc người thân hình khẳng khiu, khô đét, da dẻ nhăn nheo đen đủi, lại ăn không nên miếng nói không nên lời; còn tính tình thì khó khăn, hay cau có gắt gỏng, tâm địa thì lắt léo, nghĩ một đằng nói một nẻo. Hoặc người đang gặp vận xui (học trò hỏng thi, quan bị giáng chức, nhà buôn đang thua lỗ, nhà có tang v.v…). Những người nào tự biết mình như vậy thì hãy tránh né hoặc từ chối làm những việc kể trên cho người khác; còn nếu chính là công việc của mình thì nên mời những người tốt vía đứng chủ sự cho.

            Trở lại vấn đề tâm lí thi rõ ràng là nếu gặp được người tạm gọi hay cho là “tốt vía” đứng chủ trì hay mở đầu cho một công việc quan trọng, tâm trạng của ta đã thấy thoải mái, niềm hi vọng “đầu xuôi thì đuôi lọt” sẽ tăng lên, sự phấn khởi lúc đầu khích lệ ta cố gắng, có thêm sáng kiến, từ đó công việc có thêm yếu tố thành công. Trái lại gặp phải người tạm gọi là “xấu vía” mở đầu hay can thiệp vào công việc của ta thì tâm trạng bực bội, lo lắng, chán nản cũng dễ đưa đến thất bại.

            Hiểu như thế thì không còn là mê tín nữa. Và nếu “chẳng may” gặp người vía dữ mà ta vẫn vững tâm, sáng suốt, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn trở ngại, hay nói cách khác, vẫn giữ được những điều kiện chủ yếu để thành công thì thành công vẫn đến. Còn nếu ta đã làm hết sức mình mà vẫn thất bại thì còn thiếu sự may mắn (31) và điều đó không thể đổ cho người xấu vía mà ta gặp. Tương quan giữa việc gặp người xấu vía và sự thất bại không phải là tương quan nhân quả, cũng như không phải điềm gở sinh ra việc gở, triệu chứng bệnh không phải là nguyên nhân sinh ra bệnh.

            Lầm lẫn về mối tương quan kể trên, người ta sẽ có thái độ, hành động vô lí, thí dụ như quan niệm trọng nam khinh nữ ở xã hội xưa khiến người ta tin rằng vía phụ nữ là xấu, hễ ra ngõ để mưu cầu chuyện gì mà “gặp gái” là xui xẻo, việc ắt không thành; có người quay về (32), hoặc có người cẩn thận trước khi đi cho một đứa con trai ra ngõ để ra đi thì gặp lấy hên! Hoặc có người thấy chim cú, chim quạ đến đậu trên cây trong vườn nhà mình mà kêu thì tìm cách đuổi nó đi, nghĩ rằng làm như thế là đuổi luôn được cả cái việc chẳng lành khiến nó không xẩy ra cho mình nữa!

3. Môn địa lí (phong thuỷ)

            Môn địa lí xuất phát từ tin tưởng “địa linh nhân kiệt” cho rằng hình thể địa lí của một vùng đất như núi sông, đồng bằng, kể cả gò đống, suối lạch tự nhiên nếu có hình thể đẹp đẽ, vị trí hợp cách có thể tụ khí thiêng lại và sản sinh ra nhân tài ở vùng đất ấy, hoặc khiến cho người sống trên vùng đất ấy được thịnh vượng (33). Và cũng từ triết lí Kinh Dịch với âm dương và ngũ hành, người ta tin và suy diễn hình thể và cách thế của một vùng đất đẹp và tụ điểm linh khí của đất ấy để làm nhà ở, dinh thự, đền đài, thành quách v.v… cho người sống gọi là dương cơ, hoặc để chôn người chết gọi là âm phần để cho con cháu người chết ấy trở nên nhân tài, đỗ đạt cao, làm quan to, hoặc thành công lớn trong lãnh vực nào đó, nổi tiếng trên đời.

            Nói chung dù là dương cơ hay âm phần thì mục đích cũng là sử dụng đất đai sao cho người sống được thành công, thịnh vượng. Đất sử dụng mà đạt được mục đích trên gọi là đất đã kết phát.

            Môn học này như vậy cũng khởi nguyên từ Trung Hoa và được truyền về Việt Nam bởi Tả Ao, người được coi là ông thánh địa lí Việt Nam. Tên thật của ông là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, sống vào thời Lê Trịnh. Tương truyền mẹ Tả Ao mắc bệnh loà mắt, ông tìm thầy chữa bệnh cho mẹ và được một ông thầy Tàu thấy ông là một người con chí hiếu nên dạy cho ông khoa chữa mắt, nhờ đó ông chữa khỏi bệnh loà cho mẹ. Sau đó ông theo thầy về Tàu để giúp việc cho thầy vừa để tạ ơn, vừa để học thêm cho lành nghề. Được thầy dạy hết bí truyền, ông chữa được cho một ông thầy địa lí sáng mắt và được ông thầy này trả ơn bằng cách truyền cho nghề địa lí; ông đem được phép bí truyền của thầy địa lí về nước (34). Chắc là khi còn sống, Tả Ao hành cả hai nghề chữa mắt và địa lí, song những câu chuyện về ông được truyền lại hậu thế hầu hết là chuyện để mồ mả hay đến độ ông được suy tôn là vị thánh sư của nghề điạ lí tại Việt Nam (35).

            Xét những câu chuyện về Tả Ao được truyền tụng, ta thấy niềm tin về địa lí rất phổ biến trong xã hội Việt Nam thời xưa, nhất là từ giới trung lưu trở lên hết sức tin theo, phần tin vào việc tìm đất kết phát để mồ mả quan trọng hơn. Đó là tâm lí chung ai cũng muốn cho con cháu mình về sau được vinh hiển, nhất là những người có tiền của, không ngại tốn kém mời thầy địa lí nổi danh tìm đất để chôn hoặc để cải táng di cốt cha mẹ, hoặc giữ sẵn sinh phần cho mình để đến lúc chết thì chôn ở đó. Câu tục ngữ “sống về mồ mả, không sống về cả bát cơm” diễn tả niềm tin của người thời xưa là con người ta phải trông cậy một phần ─ có khi rất quan trọng ─ vào việc tìm đất tốt để làm phần mộ tổ tiên hầu con cháu được hưởng sự kết phát (36).

            Nhưng điều gì thái quá cũng sinh ra tệ đoan. Tiểu sử Tả Ao không thấy kể là ông truyền được cả hai nghề cho ai, kể cả cho con ông. Các thầy địa lí Việt Nam sau này cũng không thấy có ai nổi danh kế nghiệp được Tả Ao. Trong khi đó thế nhân với niềm tin quá mạnh vào việc để đất để cát như trên, ai chẳng ham cho con cháu làm đế làm vương, hoặc trở nên công hầu khanh tướng, hoặc ít ra cũng được giàu có sung sướng. Thế là giới hành nghề tìm đất để mồ để mả cũng có một thời được người đời cầu cạnh và tha hồ khoác lác bịp bợm thiên hạ cũng như một số thầy tướng, thầy số, thầy bói nói dóc ăn tiền. Tệ đoan này cũng đã từng bị người bình dân châm biếm:

Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lí hàm răng không còn. (ca dao)

            Thời xưa hễ thấy một dòng họ có người làm nên như đỗ cao, làm quan to, hiển hách một thời thì người ta khen lao là nhà ấy “được đất” nghĩa là đã táng được một ngôi mộ ông bà tổ tiên ở chỗ ấy chỗ nọ kết phát, mà ít để ý rằng do cha mẹ khéo dạy con, do người hiển đạt cố gắng chăm chỉ học hành, và có thể người trong gia tộc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, như chú bác cô dì nuôi cháu nghèo hoặc mồ côi ăn học thành tài, nên mới được như thế. Thậm chí niềm tin vào địa lí có thể khiến người ta có hành động xấu: hoặc do thù hằn, hoặc do đố kị không muốn người khác hơn mình, người ta có thể ngấm ngầm hay công khai đào phá mồ mả cha mẹ tổ tiên của nhau (hoặc đào mộ trực tiếp, hoặc tìm phá long mạch, nhất là những ngôi mộ mà người ta nghĩ là kết phát), vì nghĩ rằng làm thế người ta có thể hạ nhau xuống.

            Trong cuốn “Vang Bóng Một Thời”, Nguyễn Tuân có kể lại trong truyện ngắn “Ngôi mả cũ” một viên tướng Cờ đen đã hết thời đi làm nghề thầy địa lí được gia đình một ông quan án sát đã quá cố gồm hai chị em đón tiếp trịnh trọng. Cảnh nhà sa sút bần bách, em trai còn đang giùi mài kinh sử, chị thì ngồi dệt vải tới khuya, thế mà mời ông thầy tàu kia về nhà ở cả tháng cung phụng cơm gà cá gỏi, hầu hạ hết mình, vì sợ ông ấy thử cái “đức” kiên nhẫn chịu đựng, mong ông ấy để lại ngôi mả cha, hầu đứa em sau này đỗ đạt, nối lại nghiệp nhà. Cuối cùng khi ông thầy Tàu kia ra đi, người chị phải thuê cả phu cáng, họ còn phải “tiễn” ông ta cả bộ chén ngọc gia bảo mà ông ta mới chỉ đi xem ngôi mộ để thế nào thôi, chứ chưa nói gì đến việc xoay lại hướng cả.

            Tác giả không cho biết kết cục câu chuyện ra sao, song hình như hai chị em cậu Chiêu con cụ Án đặt hi vọng vào ông thầy Tàu và ngôi mộ cha sẽ được ông ấy sửa hướng lại hơn là vào sự cần cù làm việc, học hành của chính họ.

            Giá như khoa địa lí xưa kia chú trọng vào phần dương cơ hơn là âm phần thì chắc nó đã trở nên một ngành học hữu ích cho môn địa lí học ngày nay, cũng như cho khoa kiến trúc nữa. Người ta còn truyền tụng rằng chính thiền sư Vạn Hạnh, người góp công lớn trong việc thay nhà Tiền Lê thất đức bằng nhà Lí thuần từ nhân hậu hơn, đã cố vấn cho vua Lí Thái Tổ dời đô từ đất Hoa Lư chật hẹp khiến cho hai triều đại trước đó ngắn số ra thành Đại La địa thế rộng rãi, lại là trung tâm điểm tụ hội được linh khí của non sông, mở đường cho các triều đại lâu dài hơn là Lí, Trần và Hậu Lê về sau (38).

            Vậy thiền sư Vạn Hạnh, ngoài việc là nhà tiên tri, ông có còn là một nhà địa lí nữa hay không? Hoặc giả những bậc thiên tài thường “thượng thông thiên văn, hạ tri địa lí, trung tường nhân sự”? Nhiều giai thoại về Tả Ao cho thấy ông hành động như một nhà tiên tri nữa.

            Kết luận đúng đắn về môn địa lí này, thiết tưởng là sự bác bỏ mê tín, lầm lẫn nhân – quả; cứ tìm được đất quí để mồ mả tổ tiên là con cháu sẽ được đủ thứ hạnh phúc hơn người. Nếu thế thì tại sao ông thánh địa lí Tả Ao đi ban phát hạnh phúc cho thiên hạ mà chính mình và con cháu lại nghèo nàn? Câu giải thích thoả đáng nhất được nhiều người, kể cả Tả Ao và tất cả đồng nghiệp đồng thời cũng như hậu thế của ông, chấp nhận là “tiên tích đức, hậu tầm long” (39): hạnh phúc lớn phải là cái quả của một công trình gieo nhân bằng việc tích thiện lâu dài, có khi nhiều thế hệ, nhiều kiếp mới có được.

4. Những điều kiêng kị

Dân tộc nào cũng có những điều kiêng kị không thể cắt nghĩa thoả đáng hết được. Dân tộc Việt ta cũng có những điều kiêng kị như vậy vì tin rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Cứ kiêng đi, thà là thừa mà được yên lành còn hơn không kiêng, lỡ xẩy ra điều rủi ro rồi ân hận thì đã muộn. Do vậy, sự an toàn tâm lí như đã nói là nguyên do quan trọng của những điều kiêng kị khó giải thích của dân ta.

            Xét một số điều kiêng kị phổ biến trong xã hội Việt Nam thời xưa, ta thấy phần nhiều có nguyên do tâm lí, sau đó là do nhu cầu thực tế khách quan, còn số ít là do cách xử thế, do tín ngưỡng, do thói quen, có thứ kết hợp nhiều nguyên do trên; đời trước tin theo, đời sau cứ vậy bắt chước mà không thắc mắc tại sao phải kiêng, vì có giải thích đi nữa, dù tin hay không, đa số đã theo thì ta cũng phải theo cho chắc ăn. Hãy thử nêu một số thí dụ:

a) Những điều kiêng kị vì nguyên do tâm lí

            Người có tang, nhất là đại tang, bị coi là đang ở vào thời vận xui xẻo. Vậy nên tránh gieo cho người khác cái cảm tưởng bị lây cái vận sái (còn gọi là vận áo xám) như đến nhà người ta vào mấy ngày tết, tránh ra đường vào mấy ngày ấy để người xuất hành (ra khỏi nhà lần đầu tiên trong năm mới) gặp phải, tránh mua mở hàng, không tham dự những dịp vui mừng của người ta (40), vì ngay cái hình thức của mình (theo phong tục là phải mặc đồ trắng, đồ xám, không trang điểm và đeo đồ trang sức) đã gợi cho người ta cái cảm nghĩ buồn thảm rồi.

            Một thí dụ nữa: vợ có thai, chồng kiêng sát sinh nhất là chọc tiết lợn, cắt tiết gà vịt v.v…vì rõ ràng mình đang mong chờ một sự xuất sinh an toàn mà lại đi làm cái việc giết hại sự sống thì không thích hợp chút nào cả.

            Dù sao thì đó cũng là điều kiêng kị hợp lí, còn có những điều kiêng kị vì sợ ám ảnh tâm lí chẳng hợp lí chút nào như người trẻ tuổi kiêng tôi vôi vì sợ bạc đầu, học trò sắp hay đang đi thi kiêng ăn tôm vì con tôm cong giống hình chữ liệt 劣, chữ giám khảo phê vào bài thi để đánh hỏng thí sinh.

b) Những điều kiêng kị vì lí do thực tế khách quan

            Giá như ở vào thời nay, người ta không còn chất phác dễ tin vào những điều huyền bí nữa thì người ta sẽ bảo một đứa nhỏ đứng trong nhà mà vẫn còn đội cái nón lá là hãy gỡ nón ra cho mát, cho khỏi vướng, hoặc bảo nó đứng tránh xa chỗ người ta làm công việc có thể gây tai nạn như bổ củi, cưa xẻ gỗ, chặt cành cây v.v…, nhưng thời xưa người ta phải lợi dụng sự dễ tin trên để gây tác dụng mau lẹ: này, đừng đội nón trong nhà sẽ bị lùn đấy! Hoặc: tránh xa ra, không có tao chặt phải bóng mày bây giờ! Tức thì đứa nhỏ sợ và nghe lời ngay (41).

            Ngay cả đối với người lớn cũng thế: lời khuyên thực dụng mà biến thành điều kiêng kị thì dễ được người ta nghe theo hơn, vì thấy nhiều người tin theo, ắt là có nghiệm rồi. Chẳng hạn phụ nữ có thai, kiêng hái quả trên cây, sợ những quả non khác sẽ thui chột đi mất. Thực ra là người ta sợ bà ấy kiễng chân cố với lấy quả cao quá tầm tay có thễ ngã, nguy hiểm cho cả hai mẹ con. Hoặc người bán hàng gồng gánh kiêng không để cho người khác bước qua gánh của mình, sợ gánh sẽ không cân; thực ra là để tránh vấp té làm đổ hàng hoá gây thiệt hại phiền hà. Người ngồi đánh bạc không muốn người ngồi chầu rìa vịn vai mình vì nặng và khó chịu khiến không đủ chú ý tính toán nước bạc, song phải nói là người bị vịn vai sẽ bị xui thì người kia sợ trách nhiệm về sự thua bạc của người đánh mà tránh ra cho thoải mái.

c) Kiêng kị do tín ngưỡng, do phép xử thế hoặc do tập quán xã hội

            Trong số những điều kiêng kì này, có nhiều điều vô lí, khó cắt nghĩa nhất. Những điều nào gây trở ngại cho sinh hoạt xã hội sẽ bị đào thải theo đà tiến hoá chung; còn những điều nào vô hại thì có tồn tại cũng không sao. Đó là những kỉ niệm đáng lưu giữ của quá khứ mà mỗi khi nhắc tới thì hình ảnh mờ ảo và đẹp đẽ của cả một thời xa xăm hiện ra như sống lại và đem tới cho ta biết bao tình cảm bâng khuâng luyến tiếc như khi đọc “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân vậy.

            Chẳng hạn tục đặt cho trẻ sơ sinh những cái tên xấu xí hoặc những cái tên dành cho gia súc như thằng Sứt, thằng Sẹo, thằng cu Tĩn, con đĩ Tũn, thằng Cún, con Vá v.v… xuất phát từ tình trạng khó nuôi do sự thiếu hiểu biết về y tế vệ sinh nên tỉ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao. Nhưng người ta lại tin rằng ma quỉ hay bắt hài nhi (chết) nên cha mẹ đứa hài nhi phải đánh lừa ma quỉ bằng cách đặt tên xấu cho con thì chúng sẽ không thèm bắt (được sống). Bà con thân thuộc đến thăm hỏi mừng cho gia đình đứa bé, nếu thấy nó mập mạp, kháu khỉnh cũng không dám khen vì như thế là quở quang nó, khiến nó sẽ đau ốm quặt quẹo, tức như là vô tình báo cho ma quỉ biết ở đây có đứa trẻ đẹp đẽ khiến chúng đến bắt đi. Nếu người tới thăm tự thấy không giữ được lời khen thì phải dùng nghịch ngữ như: “Gớm! thằng bé xấu xí quá nhỉ!”; “này, trông nó đáng ghét quá đi!” v.v…, tất nhiên phải kèm theo cử chỉ nựng, âu yếm, vẻ mặt vui mừng. Đương nhiên ông bà cha mẹ đứa bé sẽ hiểu ngầm và vui vẻ cảm ơn: “Đấy, cho cô (cậu, chú, bác…) đem về nuôi đi!”.

            Cái tên xấu xí đó sẽ trở thành cái tên tục gọi thân mật trong nhà (khác với tên chính thức đẹp đẽ trên giấy tờ) có khi mãi tới tuổi trưởng thành. Và mỗi khi được gọi tới thì người con trai hay người con gái có cái tên xấu đó chẳng những không thấy mình xấu, mà còn cảm thấy thích thú vì được người gọi âu yếm (tất nhiên phải là người thân tình đã lâu năm) bằng cách gợi lại cả một thời thơ ấu đầy kỉ niệm đẹp đã qua.

            Nhưng niềm tin vào sự đầu thai lại có thể biến thành mối dị đoan là trường hợp một người mẹ gặp cảnh “hữu sinh vô dưỡng” nhiều lần liên tiếp thì cho rằng ma quỉ nó báo hại, nó phá mình bằng cách cứ “lộn đi lộn lại” làm cho mình hao tổn khí huyết, công sức, tiền của, mà không tìm hiểu xem trong cách săn sóc hài nhi có điều gì sai sót. Chẳng hạn ngày xưa người ta kiêng cắt cuống rốn trẻ sơ sinh bằng dao kim loại. Thay vào đó, các bà mụ vườn dùng thanh nứa sắc cạnh mà không biết khử trùng, khiến nhiều trường hợp rốn đứa hải nhi bị nhiễm trùng phong đòn gánh mà chết! Thời ấy người ta gọi đó là bệnh tề phong (sưng cuống rốn). Có người từ lần tử vong thứ nhì, trước khi chôn xác đứa hài nhi, lấy dao xẻo một miếng thịt đùi chẳng hạn để đánh dấu làm “nó” sợ, “nó” không dám “lộn lại” nữa!

            Một số điều kiêng kị rõ ràng là do phép xử thế đòi hỏi như không được đòi nợ vào đầu năm mới (42), năm cũ có giận nhau thì đầu năm mới gặp nhau cũng phải chào hỏi, chúc nhau điều tốt lành; đó là một cách xí xoá mối giận hờn, có cớ làm lành mà không ai mất thể diện; sáng sớm kiêng nói tục, sợ giông cả ngày, bán hàng kiêng nói “con khỉ, con hùm, con beo…” sợ ế hàng, làm nhà tránh đối cổng với nhà khác làm trước, sợ độc, thật ra là tránh tình trạng cứ phải nhìn thẳng vào nhà nhau.

            Một số kiêng kị do thói quen chung không cần giải thích như làm nhà tránh chẵn số gian: một, ba, năm gian có thể thêm hai chái (43), đầu năm chưa làm lễ động thổ thì chưa được đào đất, chưa được giã chày cối sợ cả năm làm ăn bất lợi, quét nhà vào trong mà không quét ra ngoài, sợ của đi ra, tránh uống thuốc vào đầu năm (ba ngày tết), ngày đầu tháng (mồng một), sợ sẽ đau ốm cả năm, cả tháng; dĩ nhiên đó là khi bệnh nhẹ, còn bệnh nặng thì… hết kiêng!

            Thực ra thì tất cả những điều kiêng kị không phải đều được mọi người tuân thủ nghiêm ngặt, có nhà kiêng thật kĩ, có nhà chỉ kiêng những điều gì có thể kiêng được, nghĩa là không gây trở ngại quá nhiều cho sinh hoạt. Vả lại cũng còn tuỳ theo tập tục địa phương. Vậy ngoài những điều kiêng vì lí do thực tế khách quan, nếu không kiêng thì bất tiện lợi thấy rõ, còn những điều kiêng vì phép xử thế, vì do thói quen vô thưởng vô phạt mà điều kiêng cũng dễ tuân thủ nên phổ biến rộng rãi; còn thì chả lẽ điều này ở đây không kiêng thì độc hại, mà ở kia không kiêng cũng chẳng hề gì thì còn gì là đúng mà kiêng nữa.

C. Những biến tướng của tín ngưỡng đưa đến mê tín dị đoan

            Trình độ dân trí thời xưa nói chung còn thấp, người ta còn thấy cần phải tìm đến các thế lực siêu phàm nhiều hơn bây giờ để đáp ứng những nhu cầu của đời sống thế tục, cho nên ta cũng không nên lấy làm lạ về những điều mê tín dị đoan có nhiều trong xã hội thời ấy

  1. Một vài thí dụ về cách phòng tránh, chữa trị bệnh tật

            Như trên đã trình bày, nuôi đươc một đứa hài nhi từ lúc nó lọt lòng mẹ đến lúc nó khô đầu khô sọ thật là khó khăn vất vả. Những đứa trẻ sinh ra hay quặt quẹo, nhất là con nhà khá giả mà lại hiếm, cha mẹ chúng quá lo lắng, nghe theo lời khuyên của bà con thân thuộc đem chúng đi bán khoán ở cửa thánh thì ma quỉ sẽ không dám động đến nữa. Thật ra đây chỉ là sự cầm cố theo hình thức: cha mẹ đứa bé đem nó lên đền (linh thiêng nhất là đền đức thánh Trần) làm lễ xin “bán con cho Thánh làm con nuôi”. Tất nhiên Thánh nhận, đổi họ thật của nó là Đỗ chẳng hạn ra họ Trần, viết văn tự do một ông đồng (đại diện cho Thánh) ở cửa đền thảo ra và đóng dấu son đỏ chót vào. Rồi có thêm một vài lá bùa để thường xuyên đeo vào cổ đứa bé để ma quỉ sợ oai Thánh mà tránh nó ra.

            Gọi là cầm cố cho Thánh mà cha mẹ đứa bé chẳng những không được đồng tiền nào của Thánh, mà lại còn tốn tiền cho ông đồng nữa, chắc là tiền công làm sớ tấu, văn tự v.v… Đứa bé cũng không ở lại đền mà vẫn về ở với cha mẹ; dĩ nhiên cha mẹ nó từ nay vững tâm hơn và chiều chuộng chăm sóc “cậu con nuôi của Thánh” hơn. Chừng đến năm mười hai tuổi, cha mẹ nó mới lại lên đền làm lễ xin “chuộc” con về, lại mất tiền nữa cho ông đồng, vì thường là vào tuổi ấy, cô hay cậu con đã khoẻ mạnh nghịch ngợm lắm rồi (44).

            Đối với phụ nữ, các bệnh về đường huyết, về đường thai sản cũng là khó chữa. Người xưa tin rằng tà Phạm Nhan hay quấy nhiễu phụ nữ khiến họ hay mắc bệnh về đường huyết sản (45). Cho nên quần áo đàn bà, nhất là của người trong độ tuổi còn sinh nở, giặt phơi nắng là phải mang vào trong nhà trước khi mặt trời lặn, nếu không sẽ bị tà Phạm Nhan xâm nhập vào người để gây bệnh. 

            Còn người nào đau ốm mà chữa thuốc mãi không khỏi thì người nhà tin là người ấy bị tà ma quấy nhiễu, hay vào một lúc nào đó người ấy đi qua cửa đền cửa phủ linh thiêng nào mà không xuống ngựa hay ngả nón nên bị các ngài phạt (46), nay phải đi xem bói để biết rồi đến lễ cầu xin các ngài tha tội. Nếu bị tà ma quấy nhiễu thì đi lễ thánh, xin bùa về yểm, xin tàn hương nước thải về uống, hoặc mời thầy pháp về làm lễ trừ tà thì mới khỏi. Nạn mê tín dị đoan loại này đã tạo nên sự cấu kết tự nhiên giữa mấy hạng người sống bằng nghề buôn thần bán thánh là thầy bói, thầy pháp và các ông đồng bà cốt ở các cửa đền cửa phủ hoặc ở các “tĩnh” (bàn thờ thánh ở tư gia của các ông đồng bà cốt).

2. Phù thuỷ

Đây là biến tướng của Đạo giáo. Các ông thầy phù thuỷ tự cho mình là có “căn” (có số hay khuynh hướng bẩm sinh) nên thờ đức Thái Thượng Lão quân (biến tướng của Lão tử) hay các vị thần tiên liên hệ, rồi luyện bùa đọc chú, điều khiển âm binh như môt ông tướng có ba quân dưới trướng, có thể sai đi tróc nã lũ ma quái quấy nhiễu người lành làm họ bệnh hoạn, chữa thuốc không khỏi.

            Thầy pháp được mời đến nhà người ốm, lập đàn, (dĩ nhiên là phải tốn kém) với đầy đủ nghi trượng, lễ vật, chiêng trống ầm ĩ (47), rồi thầy tay bắt quyết, miệng đọc thần chú, đoạn cầm thanh kiếm gỗ, hoặc cái roi bằng cành cây dâu (48), đi quanh nhà, quát tháo om xòm để ra oai đuổi lũ ma quỉ ra khỏi nhà thân chủ của mình. Trực tiếp vào người bệnh, thầy làm phép vào chén rượu: cầm nén hương đang cháy “thư phù” (viết chữ bùa) phía trên rồi ngậm phun vào mình bệnh nhân; hoặc đắp chăn, chiếu lên người ốm, đoạn thầy cầm roi dâu quất lên bồm bộp để tà ma nào đã nhập vào người ấy thì phải buông ra mà trốn chạy. Thế là người ốm khỏi bệnh!

            Sau đó thầy còn lấy bút son vẽ mấy đạo bùa lên các tờ giấy vàng, đạo thì đốt đi lấy tàn hoà vào nước hay vào thang thuốc cho người ốm uống, đạo thì dán trước cổng nhà, cửa buồng người ốm để sau đó lũ tà ma có mon men quay trở lại, trông thấy bùa nó sẽ sợ mà lánh xa. Kĩ hơn nữa, còn có đạo bùa để người ốm ─ nhất là đàn bà trẻ con, loại người yếu bóng vía dễ bị tà ma bắt nạt, xâm nhập ─ đeo luôn bên mình (49) thì tà ma sẽ phải lảng tránh. Thế là người đeo lá bùa hộ mạng ấy được bình yên!

            Thầy pháp như trên vẫn còn hành nghề một cách chính đáng, công khai, vì dù sao mục đích cũng là giúp người lành bị bệnh hoạn khỏi bệnh. Còn có hạng thầy pháp bất lương sống bằng nghề luyện bùa yêu thuốc giấu bán cho những kẻ muốn “chài” người khác để thủ lợi.  Thí dụ một cô gái giang hồ “chài” một ông nhà giàu để ông ấy mê mình hầu bòn rút của cải. Tệ hơn nữa còn có thầy làm các thứ “ngải” (50) hại người bán cho những kẻ muốn hại ngầm kẻ thù làm cho kẻ đó mắc ác bệnh ác tật, hoặc phát điên phát khùng, không thuốc nào chữa được, có khi đến chết.

            Nhưng rồi “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “ác giả ác báo”, mấy ông thầy pháp vô lương tâm kia, lợi dụng pháp thuật chỉ để lợi mình hại người rồi cũng đến lúc bị lũ âm bình dưới quyền phản lại, quật chết một khi họ không đáp ứng được những đòi hỏi của chúng, để chúng bất mãn.

3. Đồng bóng

            Đây là cách thức con người thông giao hoà nhập với thần linh để có được khả năng, dù là trong chốc lát, biết và hành động như thần linh. Nói cách khác, đó là cách con người mời thần linh nhập vào thân xác mình để phán ra (nói, viết) những điều huyền bí mà con người muốn biết, hoặc để giáng phúc ban ân cho những kẻ được các ngài thích, họ cũng đến để xin ơn phước. Thần linh cũng nhập vào con người để trừ tà chữa bệnh: ban cho bùa phép, cho uống tàn hương nước thải, hay cho một thứ “lộc thánh” nào đó (51) đem về ăn uống để đuổi tà khỏi bệnh.

Bà đồng

a) Đội bát nhang, hầu bóng (lên đồng)

Tín đồ của thứ tín ngưỡng này tuyệt đại đa số là các bà các cô. Họ là số người hay đau ốm (có khi là thứ bệnh ngày nay gọi là bệnh tâm thần) mà uống thuốc không khỏi, nên đi xem bói, đi lễ đi bái (52) rồi được thầy bói hoặc các ông đồng bà cốt ở cửa đền cửa phủ nói cho biết là họ có “căn”, bị các đồng cô bóng cậu hành, bắt phải làm “lính” phải “đội bát nhang” tức là phải tìm đến cửa đền cửa phủ nào linh thiêng xin “đầu quân” làm con công đệ tử hầu hạ một ông hoàng, một bà chúa, hay cô, cậu (53) nào đó để tà ma sợ oai các vị ấy mà tránh xa.

            Bổn phận của đám con công đệ tử này là các ngày lễ tiết hàng tháng (30, mồng 1, 14, 15 âm lịch), hàng năm phải đem lễ vật đến cúng lễ, kể cả đóng góp tiền bạc. Một số đệ tử thân cận của các vị ấy còn phải hầu bóng các vị nữa. Hầu bóng rất tốn kém, phải là các bà các cô có tiền của, dư thì giờ mới hầu được.

            Trước hết là phải may sắm một loạt trang phục màu sắc rực rỡ như của các ông hoàng bà chúa, các cậu công tử, các cô tiểu thư thật để lúc hầu thì thay trang phục cho đúng từng nhân vật. Mỗi lần hầu phải thuê cung văn (nhạc công kiêm ca công chuyên việc này) hát chầu văn cho hay, đàn cho ngọt để “đồng” mau lên, “đồng” hài lòng, “đồng” sẽ thưởng tiền (ngoài tiền công). Ngoài lễ vật trọng hậu, người lên đồng còn phải đem theo nhiều tiền để ban tài phát lộc cho lũ con công để tử ngồi hầu hạ bên cạnh (trang điểm, thay y phục, dâng các đồ vật mà “đồng” cần đến), hoặc chỉ thuần một việc ngồi van vái cầu xin “đồng” ban ơn giáng phước hay nghe đồng “phán”.

            Ngoài tin tưởng là hầu hạ các ngài như vậy thì sẽ được các ngài phù hộ cho khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt thịnh vượng, các bà các cô lên đồng còn thoả mãn tâm lí được làm thần thánh, làm ông hoàng bà chúa ─ dù chỉ như là đóng kịch, để thoả mãn lòng ham muốn, trí tưởng tượng trong chốc lát ─ phán truyền mệnh lệnh và được đám đệ tử tuân lời, cầu khấn vái lạy rối rít như đang sống trong cung điện huy hoàng lộng lẫy, người cung phụng, kẻ hầu hạ, muốn gì được nấy, tha hồ ban ân thị uy. Một nguyên nhân nữa của thứ mê tín này là phạm vi hoạt động của các bà các cô thời xưa quá hạn hẹp, phương tiện giải trí quá ít; vì vậy rủ nhau đi lễ, đi lên đồng nay đền này, mai phủ nọ là một thú vui tập thể khá hấp dẫn cho giới phụ nữ từ trung lưu trở lên, có tiền của, có thì giờ rảnh rỗi.

            Ngoài sự tốn kém tiền bạc và mất thì giờ vô ích, nạn đồng bóng còn tác hại như có bệnh thay vì chữa trị bằng y khoa thì lại đi đội bát nhang, lên đồng để tiền mất tật mang. Có khi con đồng mê đàn ngọt hát hay biến thành mê anh chàng cung văn đẹp trai khiến có khi tan cửa nát nhà nữa. Thời xưa đã có trường hợp “đồng” đang say sưa chèo thuyền trên cạn, hay mải mê múa kiếm gỗ, đang chỉ tay ra lệnh, đang quát thét ra oai, bọn cung văn đang ra sức đàn trống sênh phách và cao giọng hát tán dương “đồng” thì đức ông chồng của “đồng” bất chợt xuất hiện cầm gậy đập anh cung văn, đánh “đồng cậu, đồng cô” túi bụi khiến các ngài cũng phải thăng luôn!

b) Phụ đồng tiên

Cũng là một cách mời thần linh nhập vào người để nói lên vận mệnh tương lai. Nhưng thay vì là một ông hoàng, một bà chúa hay một cậu công tử, một cô tiểu thư thì ở đây là một vị tiên. Vị tiên này lúc sinh thời có thể là một bậc khoa bảng hay một tao nhân mặc khách… sau khi mãn hạn ở trần thì về cõi tiên. Song vì lưu luyến cõi trần nên thỉnh thoảng ngài còn đi lại giao du với người trần, người nào thành tâm cầu khẩn (lập bàn thờ cúng kiếng) thì ngài nhập vào người ngồi đồng và giáng bút (54) cho biết những điều người trần hỏi bằng các câu thơ, bài thơ ngụ ý để người hỏi phải giải đoán, có khi phải suy nghiệm lâu mới hiểu được.

            Phụ đồng tiên có thể được coi như một hình thức lên đồng cao cấp của giới có học; họ lập bàn thờ ở nhà, không phải đến đền kia phủ nọ, lễ vật đơn giản, không cung văn đàn hát, không trang phục cầu kì, không múa may quay cuồng; người cầu chỉ cần khăn áo chỉnh tề, thành tâm cầu khấn để hỏi giới hạn về một vài vấn đề quan trọng.

            Biến thể cấp thấp ở lớp trẻ con bình dân là một thứ trò chơi tin nhảm như phụ đồng chổi, phụ đồng ếch. Người ta để trước mặt kẻ ngồi đồng một chén nước, thắp một nén hương, một đám trẻ vây quanh đọc bài phụ đồng:

                        Đồng chổi thôi lổi mà lên,
                        Ba bề bốn bên, đồng lên cho chóng,
                        Ba bề cửa đóng, phải mở mà vào,
                        Bốn bên tường cao, phải vào cho lọt…

            Kẻ ngồi đồng ngồi nhắm mắt từ lúc bắt đầu đọc bài phụ đồng, đảo một vài vòng rồi vớ lấy cây chổi để sẵn bên cạnh quét lia lịa, khiến người xung quanh kẻ sợ hãi, người vui cuời. Nếu là đồng ếch (có bài phụ đồng riêng) thì kẻ ngồi đồng nhẩy chồm chồm lên như ếch.

            Nhân lên đồng thì phải có bài văn phụ đồng tương ứng, thường là văn vần, có người ngâm hay đọc diễn cảm, hầu bóng thì phải có cung văn chuyên nghiệp hát chầu văn có nhạc cụ hoà theo lời ca tiếng hát, người ta giải thích rằng người ngồi đồng ít nhiều có tâm lí bị dồn nén, dễ bị kích thích, chẳng hạn muốn làm ông hoàng bà chúa có kẻ hầu người hạ để ra lệnh ra oai, để thi ân ban phước…, nhưng trong đời sống thực tế không được như thế; nay có mùi hương hoa son phấn, đàn ca kích động với đầy đủ dàn cảnh xung quanh dường như thật nên khuynh hướng đưọc dịp bùng ra: lúc đó đồng lên tức thần, thánh nhập vào người ngồi đồng. Trong giờ phút ấy hồn thật của người này “tạm nằm ép đâu đó” để ngài mượn thân xác mà phán và hành động qua những cử chỉ dáng điệu tượng trưng và sống như thật với vai trò mình đóng. Đồng thăng là ngài dời bỏ thân xác người ngồi đồng để trở lên cõi trời cõi tiên; người ngồi đồng trở lại tình trạng sống bình thường.

            Có thể nói đây là kết quả của một hình thức thôi miên bằng ngoại cảnh kết hợp với sự tự kỉ ám thị cao độ. Do đó hiện tượng “đồng lên” không thể kéo dài. Nếu một người ở trong tình trạng “đồng lên” ngoài cảnh lên đồng mà là thường xuyên là mắc bệnh tâm thần; còn bất thường trong chốc lát thì một là “thánh ốp”, hai là “ma làm” tức là một vị thần hay một hồn ma nào nhập vào để đòi hỏi điều gì ở người trần. Ngược lại nếu đàn ca quá lâu mà người ngồi đồng không lên (bóng không nhập vào) thì người ấy bị người ta gọi giễu là “bà đồng đá”.

c) Gọi hồn, đánh đồng thiếp

Gọi hồn vẫn là cách thức con người biểu lộ lòng mong muốn liên lạc được với thế giới bên kia. Ở đây con người muốn “gặp” thân nhân đã khuất của mình. Gọi hồn là nhờ pháp sư lập đàn tế lễ rồi sai âm binh xuống âm phủ dẫn hồn người chết về cõi trần trong chốc lát bằng cách nhập vào người ngồi đồng để nói chuyện, kể lể, khóc than cho thoả lòng mong nhớ. Ngược lại, đánh đồng thiếp là nhờ pháp sư ─ cũng phải lập đàn như trên ─ sai âm binh dẫn hồn một người đang sống xuống âm phủ để gặp hồn người thân đã chết đang ở dưới đó để trò chuyện hỏi han, rồi trở về trần kể lại cho người sống nghe. Cách này khó hơn như đã nói trong một chú thích ở chương “Tín ngưỡng về tổ chức vũ trụ”, nên cách gọi hồn phổ biến hơn.

            Ở cả hai cách, nếu vong dưới âm muốn, cần, thiếu thứ gì thì thân nhân trên trần phải lo đáp ứng, nhất là những nhà giàu: chẳng hạn cúng cấp những món ăn mà sinh thời người ấy thích, đốt mã gồm vàng bạc tiền, đồ dùng để vong có đủ thứ mà xài; lập đàn cúng cấp các “quan dưới âm” (cũng như đút lót cai ngục và lính coi ngục) và các cô hồn (cũng như quà cáp cho các vong bạn tù) để cho vong thân nhân mình ở dưới đó được “dễ thở”.

d) Cầu tự

Có thể nói bệnh hiếm muộn khó chữa, nạn hài nhi yểu tử cộng với niềm tin về sự đầu thai, nhất là sự giáng trần đầu thai của các nhân vật ở thế giới siêu phàm đã dẫn đến việc cầu tự.

            Cầu tự là cầu có con ─ thường là con trai ─ để một cặp vợ chồng khi về già, chết đi thì có người thờ cúng, nối dõi tông đường. Cũng có người hiếm con gái thì cầu con gái. Những đôi vợ chồng hiếm muộn thường đi lễ các cửa đền cửa phủ linh thiêng để cầu tự. Thời xưa người ta hay đi chùa Hương, vì ở đó có động Hương Tích với những hòn thạch nhũ lổm nhổm giống như hình con nít mọc hai bên, tục gọi là núi Cô, núi Cậu. Người cầu tự đem quà bánh đến, ai cầu con trai thì đứng bên núi Cậu xoa vào đầu một “cậu” mà khấn “cậu về ở với vợ chồng tôi nhé”, ai cầu con gái thì đứng bên núi Cô và cũng làm như vậy. Nhà nào có nạn hữu sinh vô dưỡng thì cho là ma quỉ bắt mất con và đi lễ đền Kiếp Bạc để xin đức Thánh Trần cho một con công đệ tử nào đó xuống đầu thai, đó sẽ là con Thánh nên ma quỉ không dám động tới.

            Các cô các cậu con cầu tự này, nếu vào nhà giàu sang ắt sẽ đưọc cha mẹ chiều chuộng, nhiều khi quá mức (đã hiếm hoi lại được con Trời, con Phật, con Thánh xuống làm con mà!) nên dễ sinh hư hỏng. Đó là hậu quả của nạn mê tín này.

4. Các phương thuật thiếu cơ sở trở thành những tin tưởng nhảm nhí

            Nói chung thì do thiếu kiến thức về khoa học nên khi thấy những hiện tượng tự nhiên hoặc gặp những khó khăn, tai hoạ vượt quá sức mình, người xưa thường nghĩ ra cách nào đó để giải thích, để gỡ rối, để tránh hại. Lâu dần cách giải thích đó trở thành niềm tin, cách làm đó trở thành tập quán; người trước hiểu sao, làm sao, người sau cứ thế nghĩ theo và bắt chước làm theo mà không cần xét điều đó có đúng, có hợp lí hay không. Xin trích một số phương thuật được kể trong “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính:

a) Hiện tượng thiên nhiên

Khi có dông bão sấm sét, muốn đuổi thần thiên lôi đi, người ta bắt chước tiếng gà mà “bập, bập” mấy tiếng vì tin rằng thần thiên lôi sợ gà (55). Khi có nhật thực, nguyệt thực thì cho là “gấu ăn giăng”, “gấu ăn mặt trời” (điềm xấu), nhà nhà lấy mâm, nồi đồng, thậm chí lấy cả thúng mủng nong nia ra mà đập để gây náo động cho gấu sợ mà buông mặt giời, mặt giăng ra. Khi bão lớn nhà lung lay, lấy đũa cả (đũa bếp) mà chống vào hai chân cột thì nhà sẽ không đổ!

b) Chữa bệnh

Trẻ con hóc xương, lấy đũa cả gõ vào đầu ông Táo (ông đầu rau ở bếp) thì khỏi. Người bị bong gân ở chân tay, hãy nhờ bà chửa con so (có thai lần đầu) giẫm lên thì khỏi. Mắt lên lẹo (mọc mụn phía trong mí mắt), lấy gấu quần phụ nữ giay vào đó nhiều lần thì khỏi. Vợ đẻ khó, chồng lấy nồi đất đập vỡ toang ra để hài nhi chóng ra, hoặc chồng phải leo qua nóc nhà, lội qua ao (ý là chia sẻ nỗi đau đớn vất vả với vợ) thì vợ sẽ dễ sinh.

c) Nông nghiệp, chăn nuôi

Cây trồng lâu năm không ra quả, đợi ngày đoan ngọ (mồng năm tháng năm âl.), một người trèo lên cây, một người đứng dưới cầm vồ đập nhẹ vào gốc cây ba cái, hỏi cây đã chịu ra quả chưa, người trên cây trả lời chịu, thế là cây sẽ ra quả. Muốn cho cây cối trong vườn khỏi bị sâu, tối ba mươi tết, cầm bó đuốc soi vào cây thì sâu sẽ hết. Lợn chê cám, viết năm chữ “Khương Thái công tại thử” vào mảnh giấy vàng (giống đạo bùa) dán lên chuồng lợn thì lợn sẽ khỏi bệnh. Gà mới mua về, trước khi thả, chặt lông đuôi chôn trước cửa bếp thì gà sẽ không đi mất. Muốn trong nhà khỏi kiến, ngày mồng một tết bắt một vài con đốt đi thì cả năm sẽ không có kiến. Muốn hết rệp, bắt một vài con bỏ vào quan tài người chết sắp chôn!

d) Trấn gian, trấn ác

Đêm tối muốn ngăn kẻ trộm vào nhà, sau khi đóng cửa, dựng ngược cái chổi rồi đọc câu: “Chém đầu thằng Trích, ních đầu thằng Cược, treo ngược cành đa, chém cha thằng kẻ trộm” thì trộm đến sẽ thấy rợn người mà không dám vào. Đi đêm muốn cọp, rắn hoặc ma quỉ phải tránh xa thì lấy ngón tay cái bàn tay trái bấm vào cung bản mệnh (tuổi gì: Tí, Sửu, Dần, Mão…thì bấm vào cung ấy) rồi đọc câu thần chú: “Tứ tung ngũ hoành, ngô kim xuất hành, Vũ vương vệ đạo, Si Vưu tị binh, hổ lang bất đắc động, xả huỷ bất đắc kinh, ngô phụng Thái Thượng Lão quân cấp cấp như luật lệnh”, như thế sẽ hết sợ.

            Nếu xết tất cả các phương thuật thì tất nhiên không phải tất cả đều là vô lí. Tổ tiên ta qua bao thế hệ, ắt đã rút ra được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống và truyền lại cho con cháu trong đó có nhiều phương thuật đơn giản mà hữu hiệu. Chưa kể dân tộc ta có cả một khoa Nam dược dùng những cây thuốc Nam là những dược thảo có tại nước ta, những bài thuốc gia truyền rất hay, đáng là đối tượng để y học hiện đại nghiên cứu, ngay cả những phương thuật đơn giản mà vẫn có hiệu quả và có lí nữa. Thí dụ mắt mới lên lẹo thì lấy đũa cả hơ nóng rồi ép vào chỗ sưng nhiều lần, tức là lấy sức nóng làm mụn xẹp đi. Hoặc đi đêm ngoài cách tự trấn an tâm lí như trên, các cụ cũng bảo ta nên cầm theo cây gậy, một là để tự vệ khi cần, hai là khua động phía trước cho rắn rết chạy đi để ta khỏi giẫm lên nó thì sẽ an toàn hơn.

            Đời sống xã hội tiến bộ dần lên, những điều lạc hậu và vô ích hoặc có hại, tự nhiên sẽ dần dần bị đào thải.

Chú thích chương thứ mười một

(1)  Người ta cho rằng chính loại nhu cầu hiểu biết để thoả mãn trí tò mò đã khiến khoa học tiến bộ. Song đó chỉ là động cơ xuất phát thôi ─ để khỏi bị cái mục đích vị lợi trước mắt gây cản trở ─ còn sau đó hầu hết các phát kiến khoa học lí thuyết đều trực tiếp hay gián tiếp đưa đến ứng dụng kĩ thuật làm biến đổi bộ mặt xã hội loài người hiện đại.

(2)  Dĩ nhiên chúng ta vẫn có quyền phê bình thái độ cố chấp cương ngạnh chỉ vì quyền lợi ích kỉ mà cản trở bước tiến chung, mặc dầu đã thấy điều bảo thủ của mình là lạc hậu và có hại.

(3)  Vũ trụ được tiêu biểu bằng các vì sao có tên mang nhiều ý nghĩa tượng trưng; thí dụ Thái Dương (mặt trời) chỉ người đàn ông có thể là cha, chồng, anh em trai… tuỳ trường hợp; về cá tính có thể chỉ sự thông minh, sáng láng; các sao Văn Xương, Văn Khúc là văn tinh chỉ sự học hành đỗ đạt, sao Long Trì chỉ cái mũi, sao Phượng Các chỉ cái tai, nhưng cả hai đồng thời chỉ nhà cao cửa rộng; sao Tử Vi là vua, sao Tướng Quân là tướng, Kiếp Sát là tên cướp, Phục Binh, tên trộm v.v…

(4)  Trong việc hôn nhân, giai đoạn hai gia đình cân nhắc trước khi đi đến quyết định thì việc so tuổi căn cứ vào số tử vi của đôi trai gái xem họ có hợp nhau không là một yếu tố khá quan trọng.

(5)  Nhà văn Khái Hưng trong nền văn học chữ quốc ngữ tiền bán thế kỉ XX còn phải viết tập truyện nhi đồng “Lá Số Tử Vi” để đả phá thái độ chờ thời đợi số này. Thí dụ số tử vi cho biết tôi sẽ đỗ đạt cao thì tôi cứ việc ngồi đó, không học hành gì cả, tự nhiên sẽ có bằng tiến sĩ!

(6)  Thuyết nghiệp báo của nhà Phật cũng bảo rằng tuỳ theo loại nhân, tuỳ theo trợ duyên, quả có thể chín chậm (hậu báo: quả báo ở những kiếp sau), hoặc có thể chín nhanh (hiện báo: quả báo ở ngay kiếp này, quả báo nhãn tiền).

(7)  Vậy câu trong kinh Nhân Quả giúp ta giải thích được đời ta: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy nhìn xem điều ta hưởng thụ ở kiếp này; muốn biết quả kiếp sau, hãy nhìn xem điều ta làm ở kiếp này” – (Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị; dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị).

(8)  Người xưa tin rằng trước khi đầu thai vào một kiếp sống mới, vong của một người (cái thần thức mang sẵn mầm nghiệp gồm các chủng tử  huân tập từ trước) phải ăn cháo lú để quên hết mọi việc đã qua.

(9)  Số tử vi chỉ biểu hiện hiện kiếp, do đó thầy tử vi chỉ đoán được những việc trong kiếp này mà thôi.

(10) Mắt đen là tiêu chuẩn của khoa tướng học ứng dụng cho người Á Đông.

(11) Đến một ngày nào đó nước Việt Nam được kĩ nghệ hoá triệt để như các nước phương Tây thì khoa nhân tướng học phải xét lại chi tiết về dáng điệu cử chỉ con người trước cảnh đa số người đi làm từ sáng sớm phải nửa đi nửa chạy đến trạm xe buýt hay tàu điện ngầm, hoặc vừa gặm bánh mì vừa đọc báo, vừa ăn bữa tối vừa xem truyền hình v.v…

(12) Ẩn tướng là tướng không hiện ra ngoài, thí dụ một danh nhân tài cao học rộng mà tướng mạo không có gì đặc biệt, hoặc có khi còn xấu xí nữa. Đó là trương hợp Mạc Đĩnh Chi đời Trần, sau khi đỗ trạng nguyên, vào bệ kiến vua, vua thấy tướng mạo ông xấu xí, không muốn dùng. Ông bèn làm bài phú “Hoa sen trong giếng ngọc” (Ngọc tỉnh liên phú) để tự ví mình, mới được vua dùng.

(13) Tục ngữ Trung Hoa: “Hoạ hổ, hoạ bì, nan hoạ cốt; tri nhân, tri diện, bất tri tâm”; nghĩa: vẽ hổ, vẽ da, khó vẽ xương; biết người, biết mặt, không biết được lòng dạ.

(14) “Tục Ngữ, Phong Dao” của Nguyễn Văn Ngọc còn có những câu: “Sông sâu, sào ngắn khôn dò; người khôn ít nói khôn đo tấc lòng”; “Sông sâu còn thể bắc cầu, lòng người nham hiểm biết đâu mà dò”.

(15) Nghĩa: có tâm (tốt) mà không có tướng (tốt tương xứng) thì tướng tốt sẽ theo tâm (tốt) mà sinh ra. Có tướng (tốt) mà không có tâm (tốt tương xứng) thì tướng (tốt) sẽ theo tâm (xấu) mà mất đi. Về phương diện tâm lí, một người xấu xí nhưng tốt bụng, cư xử tốt với mọi người thì vẫn được người ta quí mến. Cái vẻ đẹp tâm hồn sẽ lấn át cái tướng mạo xấu xí kia đi. Đó cũng là ý nghĩa câu tục ngữ “Cái nết đánh chết cái đẹp”.

(16) Nghĩa: Đất nước sắp hưng thịnh, ắt có điềm lành (báo trước); đất nước sắp suy vong, ắt có điềm quái gở (hiện ra). (Trung Dung, ch. 24.)

(17) Bói dựa theo Kinh Dịch với triết lí vạn vật vạn sự sinh ra và biến đổi theo sự hỗ tương tác động giữa hai nguyên lí ÂM và DƯƠNG vừa đối nghịch vừa điều hoà lẫn nhau. Kinh Dịch như vậy là sách bói cổ của Trung Hoa.

(18) Chi tiết lối bói này có trong “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính.

(19) “Kim tiền bốc là phép bói gieo tiền đồng. Phép này thì từ Kinh Phòng đời nhà Hán đặt ra. Về sau ông Giã Hạc lại lập sẵn các quẻ và nghị luận thêm tinh tường, cho nên gọi là phép bói Giã Hạc. Phép này giản tiện hơn cả các phép khác cho nên ta theo dùng nhiều, mà nhất là các thầy bói lại chỉ chuyên về phép ấy.” (Phan Kế Bính, “Việt Nam Phong Tục”, tr. 272). “Chinh Phụ Ngâm” có câu “Gieo bói tiền tin gở còn ngờ”. Bài phú “Phong vị hàn nho” của Nguyễn Công Trứ cũng có câu: “Quẻ Dã Hạc toan nhờ lộc thánh, chút muối bỏ biển, ta chẳng bõ bèn”.

(20) Tất nhiên trong đó có những nhu cầu chính đáng. Nhưng biết đến đâu là đủ mà dừng lại thì thật là khó. Cho nên triết lí Đông phương luôn luôn khuyên con người nên hạn chế lòng ham muốn (tri túc, quả dục; tri túc, tri chỉ). Đặc biệt tư tưởng Lão, Trang chống lại cái biết đầy dục vọng. Có lẽ sau khi ăn trái cấm, A-đam đã từ bỏ trạng thái hồn nhiên để có được cái biết tham dục kể trên chăng? Song phải nói như nhà Phật mới đủ: chúng sinh phải vượt khỏi cái biết hữu lậu còn tham dục và rất giới hạn để đạt tới cái biết vô lậu (trí tuệ viên mãn: thât sáng suốt và đầy đủ) mới giải thoát được.

(21) Theo đạo Phật, ba cõi (tam giới) mà chúng sinh luân hồi trong đó có thứ tự là dục giới: thế giới dục vọng còn nặng vật chất; sắc giới: thế giới hết dục vọng nhưng vẫn còn vật chất; vô sắc giới: thế giới hết cả dục vọng lẫn vật chất, chỉ còn tinh thần.

(22) Về chi tiết các cách bói này, xin đọc “Việt Nam Phong Tục” của Phan Kế Bính, thiên III: Nói về phong tục xã hội, mục 21: Bốc phệ.

(23) Lí số học là môn học dựa vào triết lí Kinh Dịch để đoán tương lai vận mệnh của con người (cá nhân và tập thể). Lí số học như vậy bao gồm cả các khoa bói Dịch (bói cỏ thi, bói mu rùa, bói tiền), khoa Tử vi, khoa Thiên văn (nay gọi là Chiêm tinh) và khoa Nhân tướng.

(24) Tương truyền Trạng Trình có được bộ sách Thái Ất thần kinh do thầy học là Lương Đắc Bằng trao cho lúc sắp mất. Bộ sách quí này lại do một ông Tàu cùng họ Lương trao cho Lương Đắc bằng khi ông này đi sứ sang Tàu. Đã có khả năng thiên phú, lại có sách quí nghiên cứu, Trạng Trình tinh thông khoa lí số vượt cả người Trung Hoa đương thời.

(25) Tương truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm biết nhà Mạc là nguỵ triều sẽ không bền và nhà Lê sẽ trung hưng, nên định ở ẩn. Nhưng thân nhân và bạn bè cứ thúc giục mãi, ông mới ứng thí. Năm 44 tuổi, ông đỗ trạng nguyên, làm quan với nhà Mạc 8 năm rồi cáo quan về sống cuộc đời ngao du nhàn tản, mở trường dạy học, đào tạo nhiều nhân tài cho nhà Lê trung hưng sau này, trong đó có người em cùng mẹ khác cha là Phùng Khắc Khoan. Chính ông khuyên ông Khoan bỏ đất Bắc lúc bấy giờ còn thuộc quyền nhà Mạc để vào Thanh Hoá phò nhà Lê đang trung hưng ở đó.

(26) Thí dụ bài “thơ sấm”: “Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh, Can qua xứ xứ khởi đao binh; Mã đề dương cước anh hùng tận, Thân Dậu niên gian kiến thái bình” có thể đúng với bất cứ cuộc chiến tranh nào bắt đầu vào cuối năm Thìn đầu năm Tị, mức độ ác liệt tăng dần vào năm Ngọ năm Mùi và kết thúc vào khoảng năm Thân năm Dậu.-  Hoặc câu chuyện Trạng Trình biết trước cha con một người khố rách áo ôm đào hang bắt chồn cáo gì đó, đánh đổ tấm bia ngôi mộ của ông, dặn trước trong bia là phạt vạ họ “tam quán” (ba quan tiền). Đến lúc hai cha con bán hết mọi thứ chỉ được có “quan tám” thôi mới vỡ lẽ là ông biết trước họ chỉ chạy được có thế (nói lái). Nhất định Trạng Trình chả cần nổi danh thêm nhờ những việc vặt ấy khiến kẻ cùng đinh phải khốn khổ đến như vậy! Chuyện này do người đời sau bịa thêm ra mà thôi!

(27) Điều tin tưởng này được diễn tả thành câu tục ngữ có vần như sau:

Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn.

(28) Mười ba ngày kị hàng năm là 13 tháng giêng (13/1), 12/2, 09/3, 07/4, 05/5, 03/6, 08 và 29/7, 27/8, 25/9, 23/10, 21/11 và 19/12.

(29) Trong “Việt Nam Phong Tục”, Phan Kế Bính có cho biết cách tính giờ Hoàng Đạo, song thiết nghĩ ngày nay không thích hợp nữa nên chúng tôi không chép lại ở đây.

(30) Người dữ vía đến nhà đứa hài nhi, hoặc tệ hơn nữa, trực tiếp hỏi thăm nó hay hỏi người đang bế nó trên tay, có thể khiến nó sợ hãi khóc có khi cả ngày cả đêm, dỗ máy cũng không nín. Trong trường hợp này người nhà phải đốt lên một ngọn lửa lớn rồi cẩn thận bế đứa bé đưa qua đưa lại năm ba lần đốt vía dữ cho cháy đi thì nó sẽ khỏi!

(31) Ai cũng phải nhận rằng may mắn là một trong những yếu tố đưa đến thành công, kể cả đối với thiên tài. Song nếu lấy triết lí NGHIỆP của nhà Phật ra giải thích thì may mắn chính là cái quả tốt do nhân ta gieo từ trước, còn rủi ro là cái quả xấu cũng do nhân ta gieo từ trước.

(32) Thời xưa, một trường hợp bị cho là có vía xấu đặc biệt là người đàn bà vừa sinh nở xong. Vào một lúc nào đó thích hợp, người ấy phải đi ra ngoài để “đổ cung long” hay đổ “phong long” (?) tức là giũ bỏ cái xui xẻo đi. Người nào khác chẳng may gặp bà đẻ đi cổ cung long thì sẽ lãnh hết cái xui xẻo của bà ấy! – Hễ ra ngõ gặp gái mà xui thì không biết một chàng trai xưa kia xuất hành mà gặp… người yêu đến tìm mình thì có cho là xui không?

(33) Nguồn gốc xa của tin tưởng “địa linh nhân kiệt” vẫn là quan niệm “thiên nhân tương dữ”: con người là một thành phần của thiên nhiên vạn vật, nên cũng chịu ảnh hường tốt xấu của cảnh trí thiên nhiên nơi mình sống (ngày nay gọi là sinh môi, môi trường sống) mà quan trọng nhất là đất đai; đồng thời con người cũng tìm cách ảnh hưởng tác động trở lại môi trường ấy để thu lợi cho mình.

(34) Tương truyền sau khi thành tài, Tả Ao xin về nước. Ông thầy địa lí Tàu muốn thử tài người học trò Việt bèn đắp 100 mô hình đất kết trên một bãi cát, dưới mỗi huyệt kết yểm một đồng tiền rồi đưa cho ông 100 cây kim bảo ông điểm huyệt. Tả Ao cắm được 99 cây kim trúng lỗ đồng tiền, cây thứ 100 chỉ cắm sai vào mép đồng tiền. Ông thầy Tàu than rằng: nghể của ta sang phương Nam mất rồi!

(35) Số giai thoại về Tả Ao rất nhiều. Chúng tôi xin lựa chọn một số vào phần “Phụ lục cuối chương” để độc giả đọc thêm.

(36) Nay câu “sống về mồ mả, không sống về cả bát cơm” nên được hiểu là: ngoài phần vật chất hiện tại, con người phải tôn trọng cái di sản tinh thần của tiền nhân; và sự liên đới giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại và vị lai thật quan trọng và cần thiết.

(37) Như vậy là câu chuyện “Ngôi mả cũ” xẩy ra vào khoảng những năm chót của thế ki XIX, khi lớp nho sĩ cuối cùng vẫn còn nuôi hi vọng nhờ khoa cử mà vớt vát được chút danh lợi cuối mùa. Song chưa hết, sang đầu thế kỉ XX vẫn còn những ông giàu sụ như nghị Hách trong “Giông Tố” của Vũ Trọng Phụng sẵn sàng bỏ cả số tiền bằng cả cơ nghiệp của người khác ra để cầu thầy địa lí chọn đất để mồ mả cha mẹ và dành sẵn sinh phần cho mình.

(38) Tạm gác việc Cao Biền dùng pháp thuật trấn yểm các linh địa của ta để khỏi phát sinh nhân tài chống lại họ, sự kiện ông ta dùng thuốc súng phá các ghềnh thác cho tiện việc thuyền bè đi lại và tìm ra địa điểm xây dựng thành Đại La (sau này là Thăng Long) làm thủ phủ Giao châu cũng đủ chứng tỏ viên tướng Tàu này rất tinh thông khoa địa lí.

(39) Nghĩa: trước hãy gây đức (tích luỹ việc làm lành), sau mới tìm đất quí (đất có long mạch, kết phát).

(40) Thêm lí do phong tục lễ giáo: người có tang, nhất là đại tang, mà đi dự các cuộc vui sẽ bị chê cười là bất hiếu hay vô tình.

(41) Cũng lợi dụng sự dễ tin vào những điều huyền bí, các nhà chính tri, quân sự thời xưa đã có những đòn “tâm lí chiến” có hiệu quả: Lí Thường Kiệt sai người giữa đêm khuya ra đền thờ thần Trương Hống, Trương Hát đọc vang bài thơ “Nam quốc sơn hà…” khiến quân Tống nghi hoặc hoảng sợ, còn quân Việt đang núng thế lại phấn khởi hẳn lên. Tương truyền trong thời kì kháng Minh, Nguyễn Trãi cũng sai người lấy mỡ viết câu “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” lên lá cây, kiến ăn mỡ đục thủng lá thành chữ, dân đồn nhau đó là điềm trời và ùa theo ủng hộ.

(42) Chủ nợ phải tìm con nợ để đòi trả trước Tết. Con nợ nào tự biết chưa trả được thì trốn biệt khỏi nhà. Sau đó họ có thể ung dung xuất hiện từ giao thừa trở đi vì từ lúc đó đến hết tháng giêng chủ nợ có gặp cũng cười trừ không dám đòi; nếu đòi không những không được trả mà còn bị mắng nữa. Câu đối tết của Nguyễn Công Trứ: “Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa; Sáng mồng một ruợu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.”

(43) Chúng tôi xin tạm giải thích với sự dè dặt như sau: số lẻ là số dương, ở trường hợp làm nhà với số gian là số lẻ được ưa thích hơn số chẵn thuộc âm. Vả khi ở trong tình trạng số lẻ, tâm lí người ta thấy chưa tròn và cố vươn lên bằng cách dè xẻn để mở rộng thêm nhà. Còn số chẵn đã tròn rồi nên muốn dừng lại.

(44) Con trai thường được bán khoán ở đền đức Thánh Trần, con gái thường được bán khoán ở đền, phủ các vị Thánh Mẫu như bà chúa Liễu Hạnh chẳng hạn.

(45) Phạm Nhan tên thật là Nguyễn Bá Linh hay Nguyễn Nhan, người ta gọi một cách khinh bỉ “phạm Nhan” có nghĩa là tội phạm tên Nhan, bố Hoa mẹ Việt. Tương truyền y có pháp thuật điều khiển âm binh giúp quân giặc. Đến khi quân Nguyên bị Hưng Đạo vương đánh bại, Nhan bị bắt và đem chém; nhưng đao phủ cứ chém rụng đầu này thì nó lại mọc đầu khác. Hưng Đạo vương được báo tin, thân hành đến pháp trường giám sát cuộc trảm quyết và cho đao phủ dùng chính thanh kiếm của Ngài. Trước uy vũ của Ngài, Nhan biết lần này y phải chết, bèn hỏi Ngài: “Ngài cho tôi ăn món gì trước khi tôi chết?”. Tức giận vì tội phản quốc to lớn của y, Hưng Đạo vương mắng: “Cho mày ăn sản huyết đàn bà!”. Từ đó hồn phạm Nhan trở nên một thứ tà ma chuyên gây bệnh cho phụ nữ. Người nào mắc bệnh mà chữa thuốc không khỏi, phải lên đền thờ đức Thánh Trần lễ, xin bùa về yểm và tàn hương nước thải về uống mới khỏi. Đây cũng là biến tướng của lòng sùng bái anh hùng dân tộc.

(46) Trước cổng tam quan những ngôi đền linh thiêng thường dựng tấm bia khắc chữ “hạ mã”; người đi đường, nếu đi ngựa phải xuống ngựa, nếu đi bộ phải bỏ nón, tỏ thái độ cung kính khi đi qua đền. Trong truyện nhi đồng “Ông Đồ Bể”, tác giả Khái Hưng có đả phá tập quán mê tín đối với các ông thần hách dịch này.

(47) Ca dao giễu thầy pháp tham ăn:

Chập chập rồi lại cheng cheng,
Con gà sống thiến để riêng cho thầy;
Đơm xôi thì đơm cho đầy,
Đơm mà vơi đĩa thì thầy chẳng ưa!

(48) Người xưa tin rằng tà ma rất sợ loại roi dâu này.

(49) Lá bùa bằng giấy vàng được cuộn nhỏ lại, bỏ vào cái túi nhỏ may bằng vải ngũ sắc, miệng túi cũng được thắt bằng chỉ ngũ sắc. Người xưa tin rặng tà ma sợ ngũ sắc vì đó là hào quang của chư Phật và Bồ tát, chư vị Thiên vương; các Ngài cũng hay cưỡi mây ngũ sắc để du hành. Tà ma bị bắt trói bằng chỉ ngũ sắc cũng không biến trốn đi được.

(50) Có thể là thứ “thuốc lá” lén cho kẻ thù uống phải. Thầy pháp cũng có thể vẽ hình người, đề tên tuổi đối tượng muốn hại rồi làm phép để gây hiệu quả.

(51) Lễ vật như hương hoa, trầu rượu, bánh trái dâng lên lễ thánh được các ngài thụ hưởng rồi ban phước vào đó; khi được hạ xuống chia trở lại cho tín đồ thì đó là lộc thánh; ai hưởng người ấy sẽ được phước.

(52) Tục ngữ: “Có bệnh thì vái tứ phương”.

(53) Đó là các vị sinh thời là ông hoàng bà chúa hoặc con quan (cậu ấm, cô chiêu), chết được giờ linh nên thành thần.

(54) Người hầu bóng thường là phụ nữ. Người ngồi đồng tiên là nam giới, thường là bọn thư sinh để có thể viết ra những câu thơ, bài thơ tiên giáng bút: trước mặt người ngồi đồng đặt một mâm gạo, tay người ấy cầm bút bằng cành đào (chọn cành hướng vể phía đông, bẻ vào lúc mặt trời mọc mới tốt) viết thành chữ lên gạo. Phải có người ngồi bên chép lại vì sau mỗi chữ phải xoá gạo đi viết tiếp.

(55) Trong truyện nhi đồng “Cóc Tía” của Khái Hưng cũng có chi tiết này: Cóc Tía dẫn đầu phái đoàn lên trời kiện về nạn hạn hán. Ngọc Hoàng sai Thiên Lôi ra thì Cóc gọi gà trống ra, Thiên Lôi trông thấy gà, hoảng sợ bỏ chạy!