10
LUÂN LÍ QUAN CHỊU ẢNH HƯỞNG TÍN NGƯỠNG CỦA DÂN TỘC VIỆT
♦
A. Thời kì trước khi tiếp nhận ảnh hưởng tam giáo
Đọc lịch sử, đoạn các sử gia chép rằng trong thời kì Bắc thuộc lần thứ nhất, một số quan thái thú Trung Hoa có lòng nhân, hết sức lo việc khai hoá cho dân Giao Chỉ, dạy dân điều lễ nghĩa, như cưới hỏi khi lấy vợ lấy chồng, chắc có người nghĩ rằng trước khi bị người Tàu đô hộ, dân ta còn man di mọi rợ lắm! Và như vậy có khi việc nước ta bị Trung quốc đô hộ lại là một điều “đau khổ cần thiết”!
Chúng ta không phủ nhận rằng khi tiếp xúc với người Trung Hoa, văn hoá các bộ lạc Việt còn thấp hơn văn hoá Trung Hoa. Nhưng một đoàn thể con người đã biết sống hợp quần thành tổ chức xã hội thì không thể không có một hệ thống trật tự nào đó. Huống chi nước Văn Lang, dân đã biết dẫn nước, tháo nước làm ruộng, chế tạo các đồ dùng bằng đồng bằng sắt; trên thì có vua Hùng, dưới thì có Lạc hầu, Lạc tướng, con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mị nương, gia đình lại đã tiến từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ; “trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông”; sau đó vua Hùng tìm ra trầu cau, mới dùng trầu cau thay muối dùng trong hôn lễ. – (LNCQ, truyện Trầu cau, bd của Lê hữu Mục). – Vậy xã hội ấy hẳn đã có luân lí (1), tín ngưỡng, phong tục, luật lệ, đồng thời cũng phải có những quan niệm, dù là sơ thiển, về con người, về xã hội và về vũ trụ quanh mình.
Chẳng qua các viên quan cai trị người Tàu với chủ tâm đồng hoá dân thuộc địa nên có lúc thì dạy, có lúc thì cưỡng ép dân ta phải theo tập tục lễ nghi của Trung Hoa. Họ thực hiện việc này với thái độ tự cao tự đại của kẻ chiến thắng và giương cái chiêu bài khai hoá đẹp đẽ để che đậy âm mưu đen tối của họ.
Dựa vào những di tích khảo cổ khai quật được, ta có thể phác hoạ ra đời sống văn hoá vật chất (trang phục, nhà ở, đồ dùng) và một phần văn hoá tinh thần; song trong lãnh vực này thì những quan niệm về đạo đức, ta phải dựa nhiều vào truyền thuyết, dầu chỉ là để rút ra những quan niệm ấy một cách cẩn trọng, dè dặt để được gần sự thật càng nhiều càng tốt.
Ai cũng biết rằng luân lí là tương đối và có thể thay đổi theo xã hội và thời đại, còn những qui tắc đạo đức phổ quát như con cái phải hiếu với cha mẹ, vợ chồng phải chung thuỷ, anh em phải thuận hoà nhường nhịn, con người nói chung phải giúp đỡ lẫn nhau, nhất là khi gặp tai ương hoạn nạn v.v… thì xã hội nào, thời đại nào cũng thế. Cho nên chưa cần phải tiếp xúc với Trung Hoa, dân tộc Việt cũng đã có tín ngưỡng, và những quan niệm luân lí đạo đức để dựa vào đó mà cư xử trong cuộc sống xã hội, đồng thời những tập tục lễ nghi cũng hình thành theo thời gian.
Dựa vào một số truyền thuyết về thời đại Hùng vương, ta thử hình dung ra những quan niệm luân lí tiêu biểu có tín ngưỡng chi phối, nhất là những quan niệm còn tiếp tục tồn tại sau này, dù đã tiếp nhận ảnh hưởng tam giáo.
- Truyện Bánh dày, bánh chưng
Vua Hùng chọn lang Liêu, người thứ chín trong số hai mươi hai người con trai để truyền ngôi vì lang Liêu hiểu được sự tương quan mật thiết giữa trời, đất và muôn vật khi chế ra hai thứ bánh này. Bánh dày tròn tượng trưng cho bầu trời, mặt trời, là biểu tượng của sự toàn vẹn đầy đặn mà con người mong muốn đạt tới. Bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, là biểu tượng của sự ngay ngắn, đều đặn (2), nhân bánh chưng có ý nghĩa là trong lòng đất chứa sẵn nguồn sống cho vạn vật. Muôn loài được trời đất che chở, nhất là con người được đất nuôi dưỡng chủ yếu bằng hạt gạo. Bởi vậy, hạt gạo là quí nhất, người nông dân biết rõ giá trị của hạt gạo mà chính họ đã đổ bát mồ hôi lấy bát cơm, đã qua những tháng ba ngày tám là thời kì giáp hạt (3), biết đói là thế nào. Cho nên người nông dân gọi hạt gạo là hạt ngọc thực Trời cho, không được phí phạm, Trời sẽ làm cho mất mùa đói kém. Một hạt gạo, hạt cơm rơi vãi xuống đất cũng được nhặt lên cho gà ăn, chứ không được giẵm đạp lên.
Lang Liêu sớm mồ côi mẹ, ít kẻ tay chân giúp đỡ, như thế là cô đơn kém thế so với các anh em khác. Nhưng chính vì thế mà chàng phải tự lo liệu xoay xở nên có óc sáng kiến, tài tháo vát. Có thể chàng sống gần với người dân lam lũ hơn, hiểu rõ giá trị của những vật có vẻ tầm thường vì quá quen thuộc trong đời sống hàng ngày, nhưng lại không thể thiếu được. Đó là điều ta dựa vào để giải thích sự kiện được thần linh ứng mộng chỉ bảo cho cách làm bánh chưng bánh dày để bước lên ngôi tôn một cách xứng đáng.
Từ sự tích kể ra có vẻ đơn giản này, ta có thể rút ra những quan niệm về luân lí, chính trị sau đây:
- Thiên nhiên và muôn vật, trong đó có con người, liên hệ với nhau mật thiết. Thiên nhiên che chở, nuôi dưỡng con người. Vậy con người phải quí trọng thiên nhiên và sản vật của thiên nhiên. Kết hợp óc sáng tạo với bàn tay cần cù khéo léo, con người có thể từ những sản vật của thiên nhiên mà chế biến thành những sản phẩm quí; của ngon không cứ phải là vật lạ.
- Giá trị cao cả có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống hàng ngày bằng cách đáp ứng những nhu cầu bình thường mà không phải cầu kì tìm kiếm đâu xa. Từ đó suy ra dân tộc Việt có tinh thần trọng thực tế, tính tiết kiệm, ưa nếp sống giản dị mà không thích điều viển vông và ghét sự xa hoa.
- Nhà lãnh đạo phải sáng suốt tìm người kế vị mình cho xứng đáng căn cứ vào tài đức. Cùng với lòng biết ơn tiền nhân biểu hiện bằng sự thờ cúng tổ tiên, dâng cúng của ngon vật lạ, dân tộc ta đã sớm hình thành những truyền thống tốt đẹp trong sự liên đới chặt chẽ giữa các thế hệ hiện tại, quá khứ và vị lai.
- Người có đức bao giờ cũng được Trời, người ủng hộ và sẽ đi tới thành công một cách xứng đáng hơn là kẻ có thế.
2. Truyện Đầm Một Đêm
Cuộc sống rong chơi của mị nương Tiên Dung được vua Hùng cho phép cho thấy người phụ nữ Việt có tự do rộng rãi trước khi ảnh hưởng lễ giáo đạo Nho ngự trị trên xã hội ta. Cô con gái vua còn tiến xa hơn nữa khi nhất định kết duyên tại chỗ với Chử Đồng Tử, một anh chàng dân nghèo đến độ một mảnh khố che thân cũng không có (4). Sự việc này cũng cho thấy quan niệm về hôn nhân trước ảnh hưởng của Nho giáo rất phóng khoáng. Cuộc hôn nhân Tiên Dung – Chử Đồng Tử được xây dựng trên tình yêu nẩy nở tự nhiên giữa một đôi nam nữ trong cảnh trời đất bao la mà tình cờ thân thể họ không có gì che đậy như cặp A-đam – E-và giữa vườn Địa Đàng. Cuộc hôn nhân ấy tuy bị vua Hùng phản đối (5) nhưng lại được đại chúng đồng tình tán thưởng vì cũng như Tiên Dung, họ cho đó là một sự tình cờ đẹp đẽ, một cuộc kì ngộ lí thú do Trời sắp đặt và vì vậy con người không nên và cũng không thể cản trở. Sức mạnh của tình yêu quả thật nhiều lúc vượt qua các hàng rào xã hội; tuy nhiên xã hội thời Hùng vương hẳn còn chất phác, chưa có sự phân biệt giai cấp quá đáng, thành kiến xã hội chắc hãy còn ít.
Quan niệm về Trời chắc đã có, dù còn sơ thiển. Đó có thể là một sức mạnh vô hình tiềm ẩn khắp nơi, sẵn sàng giúp đỡ kẻ có đức, ủng hộ việc phải, tác thành nguyện vọng chính đáng của con người. Bố con Chử Đồng Tử nghèo đến độ chỉ có một cái khố thay nhau mà đóng, thế mà vẫn sống lương thiện. Đến lúc sắp chết, cha dặn nhường khố cho con, nhưng con thương cha, chịu sống trần như nhộng, để khố chôn cha thì cặp phụ từ tử hiếu này quả đáng được Trời thương và ban cho hạnh phúc.
Cặp vợ chồng công chúa – dân đen này sau khi nhất quyết bảo vệ mối tình đẹp đẽ chân thành của mình, mặc cho gia đình (hoàng gia, triều đình, gọi theo danh từ sau này) từ bỏ, đã biết chung lưng đấu cật làm ăn, và với sự ủng hộ của dân chúng trong vùng họ gặp gỡ nhau, cả vùng ấy trở nên trù phú thịnh vượng đến nỗi vua Hùng tưởng con gái và chàng rể định lập một nước riêng trên lãnh thổ của mình nên cử binh tới trừng phạt tội li khai ấy.
Tiên Dung sẵn sàng chịu chết mà không chống lại cha, cặp vợ chồng này đúng là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Và “hiếu tâm đã động đến Trời”. Trời đã sắp xếp cho họ gặp nhau thì Trời cũng phải tìm lối thoát cho họ được chu toàn. Họ được lên trời và trở nên một trong “Tứ bất tử” của dân tộc Việt (6).
Quan niệm đạo đức thắng bạo lực và tinh thần bất bạo động ở đây đáng được chú ý. Trước đó, qua một cuộc xuất ngoại đi buôn của Chử Đồng Tử, chàng gặp được một vị sư có pháp danh là Phật Quang truyền đạo và dạy phép cho; vợ chồng Chử Đồng Tử – Tiên Dung đã đi vào con đường ĐẠO và từ bỏ thế lợi.
Sau này các nhà chép truyện ghi thêm những chi tiết hẳn là do các thế hệ sau thêm thắt và truyền tụng là Chử Đồng Tử dùng gậy phép do sư Phật Quang cho để cải tử hoàn sinh nhiều người. Chàng còn lấy thêm cô vợ hai ─ một tiên nữ giả dạng làm thôn nữ ─ bà Tây cung (7) này chữa được nhiều bệnh nan y mà không phải đợi bệnh nhân chết hẳn rồi mới cứu sống lại được như ông chồng. Sau này Chử Đồng Tử còn cưỡi rồng xuống ban cho Triệu Quang Phục một cái vuốt rồng để đánh thắng quân Tàu xâm lược. Về sau trường Nội Đạo (khuynh hướng dân tộc hoá các tôn giáo bằng cách thành lập một tôn giáo dân tộc) tôn Chử Đồng Tử làm tổ sư có lẽ là do lòng mong muốn các vị thần tiên của dân tộc nhập thế cứu dân cứu nước như các chi tiết thêm thắt kể trên.
3. Truyện Dưa hấu
Truyện cho thấy rõ niềm tin vào Trời: “Trời sinh Trời dưỡng”. Nó thể hiện niềm tin mạnh mẽ vì có chỗ dựa là niềm tin vào thuyết luân hồi và nhân quả: nhân vật chính là Mai An Tiêm tin rằng của cải mình được hưởng hiện nay là của tiền thân do chàng gieo nhân từ kiếp trước nên được hưởng quả ở kiếp này.
Truyện cho biết An Tiêm do thuyền buôn nước ngoài đem đến và được vua Hùng mua làm đày tớ. Thuyền buốn ấy có thể từ Ấn Độ tới và An Tiêm có thể là ngưới Ấn Độ nên có tín ngưỡng tiền Phật giáo. Tuy nhiên niềm tin Trời sinh Trời dưỡng (cũng như Trời sinh voi, sinh cỏ) chắc là vốn có của dân tộc ta và còn truyền lại đến ngày nay. Niềm tin này đã góp phần khích lệ chúng ta phấn đấu vượt qua biết bao nghịch cảnh của cá nhân như trường hợp của An Tiêm bị đày ra hoang đảo mà rồi vẫn sống sót trở về trong danh dự.
Truyện kết thúc bằng thái độ khoan dung và biết phục thiện của vua Hùng (thừa nhận niềm tin của An Tiêm là đúng và phục hồi danh dự cho chàng). Đây là bằng chứng rõ ràng cho tinh thần cởi mở của dân tộc ta có ngay từ nhà lãnh đạo trở xuống; còn thái độ cố chấp cương ngành của những kẻ cầm quyền theo chế độ chuyên chế sau này là trái với tinh thần truyền thống của dân tộc.
4. Truyện Phù Đổng Thiên vương
Trong truyện này thì Trời không những chỉ giúp đỡ cho một cá nhân mà còn giúp đỡ cho cả một dân tộc có chính nghĩa: chiến đấu để tự vệ chính đáng. Đứa bé làng Phù Đổng chính là vị thiên tướng Trời sai xuống đánh tan quân xâm lược để cứu nước Việt. Xong nhiệm vụ Ngài bay về trời. Ý thức quốc gia chắc còn chưa rõ, nhưng niềm tin rằng Trời tất bênh vực kẻ yếu chống lại kẻ cường bạo hẳn là phôi thai của niềm tin “Thiên thư định phận” sau này.
Điều đáng chú ý ở đây là sự xuất hiện của nhân vật nửa thần nửa người: giáng trần bằng cách đầu thai như người (8), nhưng lớn lên, ra trận và bay về trời như một vị thiên thần.
5. Truyện Trầu cau
Ba nhân vật trong truyện không phải là thần, cũng không thuộc giới quí tộc, mà là người dân bình thường. Thế nhưng ở họ tình nghĩa con người được nâng cao lên cực điểm, khiến sau khi chết họ hoá kiếp thành một biểu tượng cho tình anh em, nghĩa vợ chồng khăng khít, chung thuỷ khiến dân chúng cảm phục và lập đền thờ. Đây có thể là mối tình ngang trái tay ba và phải đi đến chỗ giải quyết là người em hi sinh, tự ý bỏ đi. Sự hoá kiếp ra cây ra đá biểu lộ niềm tin ở sự liên hệ mật thiết giữa người với vạn vật đã sớm có ở những người thượng cổ, dĩ nhiên chưa thành quan điểm triết học như “thiên nhân tương dữ”, “thiên địa vạn vật nhất thể”, “con người là tiểu vũ trụ” v.v…
Ta có thể tóm tắt những quan niệm về luân lí của người Việt thời thượng cổ ít nhiều chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng như sau:
- Niềm tin linh hồn tổ tiên trường tồn, phù hộ con cháu và có Trời Đất thần linh cứu giúp kẻ ngay lành khiến con người lạc quan sống thiện và phấn đấu vượt qua mọi nghịch cảnh gặp trong cuộc đời.
- Cách cư xử giữa các phần tử trong gia đình như cha mẹ, con cái, anh em, vợ chồng là phải hiếu thảo, nhường nhịn, thuỷ chung đã có dù chưa thành những qui tắc, nghi thức nghiêm túc như lễ giáo đạo Nho qui định sau này. Những kẻ hiền lành ngay thẳng sẽ được Trời cứu giúp, cho hưởng sung sướng; nếu có công lớn sẽ được bất tử hoặc được nhân dân sùng bái.
- Luân lí quốc gia: người lãnh đạo phải cẩn thận chọn người kế vị xứng đáng, lo tìm bậc anh tài trong dân chúng để chung lo việc nước; nhân dân trong nước cũng phải đoàn kết ủng hộ nhà cầm quyền chống giặc ngoại xâm Hậu thuẫn cho luân lí trên là niềm tin Trời bênh vực chính nghĩa và anh linh tổ tiên sẽ phù hộ con cháu. Ngược lại con người phải thờ kính Trời Đất thần linh, con cháu phải biết ơn tổ tiên bằng sự hiếu kính đối với người còn sống và thờ cúng kẻ đã khuất.
- Đã bắt đầu xuất hiện tín ngưỡng ngoại lai, có lẽ là thuyết luân hồi, nhân quả từ Ấn Độ tới, cùng lí tưởng cao tột của cuộc sống là được lên cõi trời. Đó cũng là lòng mong ước được trường sinh bất tử vốn có của con người, cùng với lòng mong muốn có được khả năng siêu phàm để thực hiện được những việc vượt qua giới hạn chật hẹp của người phàm tục. Điều kiện đạt tới cứu cánh đó là phải từ bỏ thế lợi và tu học đạo.
B. Những quan niệm luân lí chịu ảnh hưởng của tam giáo
Những niềm tin chính yếu có trước khi tam giáo du nhập như sự hiện hữu của các thế lực siêu phàm (Trời và thần linh), sự tồn tại của linh hồn người đã chết vẫn tiếp tục còn đó. Tuy nhiên xã hội càng tiến triển thì tín ngưỡng cùng với các hình thức lễ nghi cũng biến đổi kéo theo những quan niệm luân lí chịu sự chi phối của các niềm tin tôn giáo ấy. Nói chung là có sự tổng hợp, hệ thống hoá các điều tin tưởng như đã trình bày trong hai chương trước.
Ở đây chúng tôi chỉ lược duyệt những quan niệm luân lí tiêu biểu mà ông cha ta khi xưa vẫn sống theo, dựa vào các niềm tin siêu hình.
- Niềm tin vào Trời
Trời như là vị chủ tể của vũ trụ với sự phụ tá của các vị thần linh dưới quyền. Ngài phán xét một cách chí công vô tư mọi hành động của con người dưới trần bằng sự thưởng thiện phạt ác thật chính xác.
Có niềm tin này, con người cố gắng sống thiện cho dù phải tạm thời chịu đựng những bất công đau khổ, vì cuối cùng sẽ được đền bù xứng đáng vì “Trời cao có mắt” và nhất định Trời không phụ kẻ ngay lành. Những kẻ gian ác mà vu oan giá hoạ cho người thì cả hai bên thế nào cũng được “đèn trời” soi xét đến tận tim đen tim đỏ và rồi sẽ thấy “lưới trời lồng lộng, thưa nhưng không lọt” (9). Những kẻ tham lam chỉ lo vơ vét của cải dù là của phi nghĩa, kể cả bằng phương tiện bất chính thì sẽ có lúc:
Của Trời, Trời lại lấy đi,
Giương hai mắt ếch, làm chi được Trời!
Những kẻ giàu có mà keo kiệt, thiếu lòng vị tha, không chịu giúp đỡ người khác, nhất là khi người ta đang gặp hoạn nạn thì nên học bài học “xởi lởi thì Trời gởi của cho, so đo thì Trời gò của lại”. Những kẻ chỉ bo bo thu vén cho bản thân “mười nhát cuốc, cuốc vào lòng mình cả mười” cùng lắm là lo cho vợ con thì sẽ có lúc thấy rằng “người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Những kẻ không tin ở Trời mà làm điều ác ắt sẽ thấy “không có Trời ai ở với ai”, xã hội loài người đã là một xã hội theo luật rừng rồi, vì chỉ có Trời mới thấu được những uẩn khúc trong cuộc đời, kể cả trong lòng người; còn con người mà phán xét kẻ khác thì thế nào cũng có lúc sai sót, ấy là nói những người chính trực mà chưa kể đến hoàn cảnh xã hội trong đó “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, hoặc như Nguyễn Du tả trong Truyện Kiều:
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!
Những kẻ mặt người mà lòng lang dạ sói, thấy người lương thiện mà lại khờ khạo thì khác nào hổ đói gặp cừu non như lũ Mã Giám Sinh, Tú bà, Bạc Hạnh, Bạc bà v.v… đối xử với nàng Kiều, chúng có biết đâu rằng sau này Trời sẽ mượn lưỡi đao Từ Hải để thực hiện công lí và cho chính nạn nhân của chúng tuyên án chúng (10):
Nàng rằng: “Lồng lộng Trời cao,
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta.”
Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh,
Tú bà với Mã Giám Sinh,
Những tên tội ấy đáng tình còn sao!
Lệnh trên truyền xuống khai đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình (11).
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy, hồn kinh phách rờí!
Cho hay muôn sự tại Trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta.
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương!
Niềm tin có Trời cầm cán cân công lí siêu hình, tuyệt đối công minh thật đã có công dụng khuyến thiện to tát. Trong nền văn học Việt Nam trước khi tiếp nhận ảnh hưởng Tây phương, các tác giả theo chủ trương văn chương có nhiệm vụ chuyên chở đạo lí (văn dĩ tải đạo), bênh vực lẽ phải, nên nhiều khi họ đã phải nhờ đến Trời trực tiếp thực thi công lí. Như trong truyện Thạch Sanh, nhân vật Lí Thông gian tham độc ác, chỉ lo hãm hại Thạch Sanh là người hiền tài đã kết nghĩa anh em với hắn, để cướp công lớn của chàng. Đến khi lộ bộ mặt thật, hắn được Thạch Sanh rộng lượng tha tội cho về nhưng giữa đường Trời sai Thần Sét đánh chết và hoá kiếp hắn thành loại bọ hung muôn đời chui rúc trong đống dơ.
Hoặc như trong “Lục Vân Tiên”, tên bạn xấu Trịnh Hâm hãm hại bạn hiền (đẩy Lục Vân Tiên xuống sông), sau này dù được Vân Tiên tha tội, trên đường về bằng thuyền, hắn bị sóng thần đánh ngã xuống nước và bị cá lớn nuốt luôn. Cũng vậy, mẹ con Võ Thể Loan phụ rẫy Vân Tiên khi chàng bị mù, đến lúc chàng đỗ trạng, họ muối mặt quay trở lại; cả hai bị đuổi về, thì giữa đường đã có hai “ông cọp” chờ sẵn tha bỏ vào hang Thương Tòng (đúng chỗ Võ công, chồng và cha đã chết của hai y thị, đã cõng Vân Tiên bỏ cho chết đói ở đó). Còn những người đức hạnh như Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực, Kiều Nguyệt Nga thì sau cơn hoạn nạn, cuối cùng họ đều được hưởng vinh hoa phú quí cả.
Trong đời sống thực tế, sự báo ứng tương xứng kể trên cũng có; nhưng trước mắt mọi người, điều trái ngược cũng vẫn thường xẩy ra: kẻ làm điều ác mà suốt đời vẫn cứ thong dong, còn người sống ngay lành có khi lại gặp tai hoạ chết thảm khốc thì sao? Đến đây thì ông bà ta đã phải tìm đến luân lí quan của Phật giáo để giải thích và tin tưởng.
2.Luân lí quan chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo
Thuyết luân hồi, luật nhân quả kết hợp thành thuyết nghiệp báo đã đem lại cho luân lí quan của dân tộc Việt sự giải thích ổn thoả và sâu sắc về những nghịch cảnh gây đau khổ xẩy ra trong cuộc đời của từng cá nhân và của từng tập thể con người. Đồng thời các thuyết ấy cũng có tác dụng tốt về mặt luân lí đạo đức vì với niềm tin này, ông bà cha mẹ cố gắng ăn hiền ở lành và khuyên dạy con cháu bắt chước mình không những với hi vọng tránh được tai ương hoạn nạn và được hưởng phúc ngay ở kiếp này mà còn được như vậy ở những kiếp sau; không những cho đời mình mà còn cho các thế hệ con cháu về sau nữa.
Sau đây là một số quan niệm tiêu biều xuất phát từ luân lí quan kể trên:
a) Quan niệm về phúc đức, tội lỗi
- Đức: là cái bẩm chất tốt biểu hiện ở một con người, là những tính tốt tự nhiên mà có, hoặc do tu thân mà có. Đức không chỉ ở trong tình trạng thụ động nghĩa là không làm hại ai, vì con người sống là phải cư xử với người khác (13), mà nó còn thúc đẩy con người hành động theo chiều hướng tốt, tức là đem lại an vui hạnh phúc cho tha nhân. Người có đức là người sống với mục đích giúp ích đồng loại. Mỗi khi ta làm một việc tốt cho ai là ta đã gieo một nhân lành và sẽ nhận được quả tương xứng vào một lúc nào đó trong tương lai. Tích luỹ những việc làm tốt đó lại, ta có một số “vốn” gọi là:
- Phúc: là cái quả tốt mà ta đang hoặc sẽ được hưởng do cái nhân tốt ta đã gieo từ trước. Nói rõ hơn, phúc là những điều tốt lành như sức khoẻ, tuổi thọ, tiền của, danh vọng, tình yêu thương v.v… những điều mà con người bình thường sống ở trên đời này ai cũng muốn có. Càng làm được nhiều việc tốt, hành động cứu giúp người càng lớn thì phúc càng dầy, hưởng thụ đời này không hết thì để dành đời sau hoặc cho con cháu được hưởng. Làm phúc có thể ví như gởi tiền vào trương mục tiết kiệm của “Ngân hàng Thiên đình”, ngân hàng này khác với ngân hàng ở thế gian là lời không hạn mức mà vốn không bao giờ mất (nếu ta không tự ý rút ra) vì Ngân hàng này không bao giờ sụp đổ vỡ nợ cả. Trong số các việc cứu giúp người khác thì việc cứu mạng người khác là lớn hơn hết:
Dẫu xây chín đợt phù đồ (14),
Không bằng làm phúc cứu cho một người. (ca dao)
- Tội: là hành vi làm hại kẻ khác để thủ lợi, hay ít ra là để tránh hại cho mình (ích kỉ hại nhân) hoặc để thoả mãn một ác ý như sự hận thù, lòng ghen ghét… Người ta cũng gọi đó là một việc làm thất đức, không những trái với đạo đức làm người mà còn tổn hại đến cái bẩm chất tốt ở mỗi con người, làm thiệt cái vốn tốt (phúc) mà người đó đã tích luỹ được. Nếu một người đã có ít hay không có phúc mà còn gây tội thì cũng như người mang thêm nợ và sẽ phải trả vào một lúc nào đó trong tương lai. Nếu làm việc nhân đức cũng ví như gởi tiền vào Ngân hàng Thiên đình không thể mất được thì gây tội ví như vay nợ Ngân hàng ấy, cũng không thể trốn được.
Nếu cứu sống người là tạo được phúc lớn nhất thì ngược lại giết người, nhất là người vô tội, cũng là việc thất đức lớn hơn cả, sẽ phải lãnh hậu quả là phải chịu tội với luật pháp ở cõi đời này và hình phạt tương xứng ở cõi âm hoặc ở những kiếp sau. Từ khởi điểm này, ta suy ra những điều phúc tội tương xứng với qui luật “nhân nào quả ấy” từ nhỏ đến lớn. Thí dụ một ông thầy thuốc giỏi và tận tâm, cứu sống được một bệnh nhân đã thập tử nhất sinh, thế là tạo được phúc lớn. Ngược lại một ông quan toà xử tử oan một nghi can, thế là một hành động thất đức nghiêm trọng (15). Suy ra ta hiểu rằng hành động hoà giải để tránh được một cuộc chiến tranh cứu được bao sinh linh thì phúc đức vô lượng; trái lại hành động gây chiến gây nên cảnh tang tóc tàn phá khắp nơi ắt tội lỗi ngất trời, trả đến kiếp nào cho hết!
Trong đời sống của một cá nhân nói chung, cũng cứ theo qui tắc càng làm cho người ta được lợi ích sung sướng thì càng được phúc nhiều, gây thiệt hại đau khổ cho người khác thế nào thì sẽ phải chịu tai hoạ tương đương thế ấy. Thí dụ tác hợp cho người ta nên duyên vợ chồng hạnh phúc, hoặc vợ chồng người ta đương bất hoà, hạnh phúc gia đình sắp tan vỡ mà mình hoà giải được cho người ta hoà thuận lại với nhau là được phúc lớn. Trái lại cặp trai gái xứng đôi vừa lứa đang yêu nhau mà gièm pha cho người ta rời nhau ra, không nên duyên chồng vợ; hoặc tệ hơn nữa gia đình người ta đang hạnh phúc mà mình xía vô phá gia cang người ta (như ngoại tình với chồng hay vợ) khiến cho vợ chồng người ta bỏ nhau, con cái sẩy đàn tan nghé thì tội lớn vô cùng.
Thu hẹp phạm vi lại nữa, thuyết nghiệp báo giải thích rằng một cô gái có duyên, xinh đẹp vì kiếp trước cô ấy là người hay tươi cười, hoà nhã với mọi người; còn cô gái kia vô duyên, xấu xí, bị người ta xa lánh vì kiếp trước cô ấy là người hay nhăn nhó, gắt gỏng, cáu kỉnh. Thuyết này cũng khuyên người ta chớ nên dùng miệng lưỡi gièm pha, xui xiểm hại người, làm thầy giùi “đâm bị thóc, chọc bị gạo” khiến người ta “trai cò mổ nhau”, mình ở giữa làm “ngư ông thủ lợi”, kiếp sau sẽ phải làm loài rắn rết, hễ người ta gặp là người đập cho nát đầu ra.
Thật là những bài học luân lí đơn giản mà cụ thể, cũng không kém phần sâu sắc và hữu hiệu.
- Âm đức (âm chất, âm công): là kết quả của những hành vi đạo đức không hiển lộ ra mà được dự trữ ngầm để khi cần có thể sử dụng ngay hoặc sử dụng dần dần. Đó là do những việc làm tốt của một cá nhân có từ kiếp trước hay trong kiếp này, hoặc do ông bà cha mẹ để lại cho con cháu mà ít người thấy biết. Nhưng khi gặp cơn hoạn nạn, bệnh tật hiểm nghèo nguy kịch, kẻ không có hoặc có quá ít âm đức thì sụp đổ; khó có thể qua khỏi. Còn người có nhiều âm đức thì vượt qua cơn sóng dữ đó của cuộc đời một cách kì diệu. Lúc bấy giờ người ta (kể cả chính đương sự) mới nghĩ lại và biết rằng đó là nhờ âm đức dầy dặn.
Trong Truyện Kiều, khi Thuý Kiều mộng gặp Đạm Tiên, nhân vật ma này tự nhận là người đồng hội đồng thuyền với Kiều và cho nàng biết là do nghiệp nhân gây từ kiếp trước nên kiếp này nàng có tên trong sổ đoạn trường để chịu nghiệp báo. Sau khi bán mình, bị Tú bà ép tiếp khách, Kiều tự vẫn song không chết. Trong cơn mê, Kiều lại thấy Đạm Tiên hiện ra và bảo nàng là không thể trốn được nợ và khuyên nàng nên chấp nhận chịu đựng đau khổ ở kiếp này để trả cho xong món nợ tiền kiếp. Sau đó Kiều sẽ đến sông Tiền Đường và Đạm Tiên sẽ chờ sẵn ở đó để đón nàng:
Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao!
Số còn nặng nghiệp má đào,
Người dù muốn quyết, Trời nào đã cho.
Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.
Quả nhiên, sau khi vì nghe lời Kiều, Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến và tử trận, còn Kiều thì bị họ Hồ ép lấy viên thổ quan và đưa xuống con thuyền đang đậu trên sông Tiền Đường, Kiều nhớ lại lời Đạm Tiên và biết là đã đến lúc cùng đường, và nàng gieo mình xuống sông… Song ta hãy nghe vị đạo sĩ tiên tri là bà Tam Hợp xét đoán về cuộc đời Kiều:
Xét trong tội nghiệp Thuý Kiều,
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời;
Hại một người, cứu muôn người,
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
Thửa công đức ấy ai bằng,
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi;
Khi nên Trời cũng chiều người,
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.
và lời hồn ma Đạm Tiên hiện ra đón Kiều trong cơn mê giữa dòng nước Tiền Đường:
Chị sao phận mỏng đức dầy,
Kiếp này đã vậy, lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến Trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
Một niềm vì nước vì dân,
Âm công cất một đồng cân đã già.
Đoạn trường sổ rút tên ra,
Đoạn trường thơ phải đem mà trả nhau.
Còn nhiều hưởng thụ về sau,
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
Thế là Kiều được Giác Duyên vớt lên! Thế là Kiều trở về với Kim Trọng!
Trong đời sống thực thì những thành công của một cá nhân, sự thành công của một gia đình, một dòng họ có thể biểu lộ âm đức của cá nhân, gia đình, dòng họ ấy nhiều hay ít, dầy hay mỏng. Thí dụ cuộc đời người này đi học thì lên lớp, đi thi thì đỗ, lấy vợ thì gặp ngay người xứng ý, êm xuôi mọi việc, làm quan thì thăng chức đều đều, trong dòng họ số người thành đạt như vậy cũng đông. Ấy là phúc đức (kể cả âm đức) của cá nhân ấy, của dòng họ ấy dầy dặn (16). Nhưng cũng con đường đời như vậy mà người kia thì học hành trắc trở, thi rớt lên rớt xuống, lấy vợ khi gặp người mình vừa ý thì họ lại chê mình, kẻ thích mình thì lại không hợp nhãn; làm quan thì thăng giáng trầy trật; trong dòng họ số người làm nên rất ít oi. Như vậy là phúc đức, âm đức của cá nhân và dòng họ ấy mỏng.
b) Quan niệm về phúc ấm gia đình (lưu ấm), quả báo thế hệ
Đây là quan niệm hết sức phổ biến trong xã hội Việt Nam xưa. Nó cũng cắt nghĩa một phần tại sao tinh thần gia tộc, tình cảm gia đình ở người Việt Nam xưa lại gắn bó chặt chẽ họ lại với nhau. Theo quan niệm này thì cái nghiệp nhân xấu hay tốt mà một người gây ra không những sẽ tạo nghiệp quả cho chính bản thân người ấy nhận lãnh ở kiếp này kiếp sau, mà còn cho các thế hệ con cháu người ấy nhận lãnh tiếp, nếu cái việc làm gieo nhân ấy có tầm vóc lớn lao (17).
Nếu cha mẹ chịu khó tu nhân tích đức (cứu người hoạn nạn, giúp kẻ khốn cùng) thì không những bản thân cha mẹ sẽ được sung sướng như khoẻ mạnh, sống lâu, giàu sang, mà con cháu cũng sẽ được nhờ phúc ấm ấy như thi đỗ cao, làm quan to; như thế là cha mẹ được hưởng trở lại cái vinh dự và những điều sung sướng do con cái báo hiếu:
Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con. (ca dao)
Chế độ quân chủ xưa chủ trương tinh thần liên đới gia tộc chặt chẽ: một người làm quan, cả họ thơm lây; một người phạm tội, cả họ xấu lây, có khi vạ lây, nên cho con trai các quan to được tập ấm, tức được hưởng nối tiếp cái phúc đức của cha; con quan do đó được gọi là cậu ấm. Còn cha mẹ là dân thường mà có con trai đỗ cao làm quan to thì vua ban cho cha mẹ được hưởng quan hàm kém con một hai trật (quan hàm là chỉ có danh chứ không làm quan thật sự).
Cũng có trường hợp cha mẹ ăn hiền ở lành mà vẫn nghèo khổ cho đến hết đời thì người ta tin rằng phần phúc đức con cháu được hưởng càng lớn, vì cha mẹ không được hưởng nên dành cho con, cũng như cha mẹ giàu mà tiêu xài ít thì để lại gia tài cho con cái nhiều. Còn nếu cha mẹ sống lâu, hưởng sung sướng quá nhiều mà không làm điều gì phúc đức để dành cho con cháu thì người ta bảo rằng ông cụ bà cụ ấy hưởng (ăn) hết phần con cháu (18). Niềm tin này khuyến khích mọi người cố gắng làm nhiều việc thiện để phúc đức lại cho con cháu được hưởng. Trong bài thơ “Vịnh ông tiến sĩ giấy”, sau khi châm biếm những kẻ mua danh bán tiếng hão, Nguyễn Khuyến vẫn đề cao giá trị đích thực của khoa bảng chân chính mà theo ông, người ta muốn có được thì hãy tự hỏi:
Hỡi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu?
Còn nếu cha mẹ ăn ở thất đức như cậy quyền cậy thế đè đầu đè cổ người ta để sang đoạt tài sản, cướp vợ tranh chồng, mua gian bán lận, cho vay nặng lãi v.v… thì chẳng những đời mình sẽ có lúc trắng tay, phải đi ăn mày ăn nhặt, mà con cháu về sau cũng cất đầu không nổi:
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. (tục ngữ)
Câu chuyện cổ kể người học trò được con chó đá đứng dậy vẫy đuôi mừng đón mỗi khi đi qua chỗ nó ngồi, rồi được nó cho biết là anh có tên trên sổ thiên đình được đỗ cao. Người cha anh ta bèn lên mặt hống hách với mọi người, ai chạm đến thì đe doạ sẽ trả thù sau khi con thi đậu. Thế là anh ta bị gạch tên và thi rớt. Chỉ sau khi người cha hối hận làm mọi điều để chuộc lỗi, người con mới thi đậu. Câu chuyện này cùng với câu chuyện một anh học trò được thần linh báo mộng cho biết sẽ thi đậu cao, liền đe doạ người chủ nợ đến đòi nợ, kết quả cũng là thi hòng phát sinh ra câu tục ngữ “chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”.
Trong đời sống thực tế, thật dễ hiểu khi thường xẩy ra cảnh nhà giàu, cha mẹ ki cóp từng đồng mà con cái lại quen thói bốc rời, vung tay quá trán; cha mẹ chết chẳng bao lâu mà con cái phá tán tài sản sạch trơn. Ấy có thể là của phi nghĩa không bền (19) hoặc do cha mẹ giàu sang nên quá nuông chiều con cái để chúng ỷ lại, hư hỏng, đớn hèn, cuối cùng trở nên hạng mạt lưu trong xã hội. Một ông quan lớn tự nhiên sinh một đứa con tật nguyền, phải nuôi báo cô suốt đời ắt bị người ta xầm xì rằng đó là báo ứng của một việc thất đức ông ta đã làm khi cầm quyền. Một ông có tài có tướng nhưng lại có tật cứ hay đi phá gia cang nhà người ta (ngoại tình với vợ người ta), quả nhiên sau này nếu bà vợ ông không phản bội ông thì mấy cô con gái của ông cũng gặp thằng họ Sở làm cho lâm vào cảnh:
Cả nể cho nên sự dở dang.
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng?
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang! (20)
(Hồ Xuân Hương)
rồi hắn quất ngựa truy phong. Niềm tin này cũng răn đe kẻ ác mau hồi tỉnh, hối lỗi, kẻo về sau sẽ bị chính con cháu oán trách là ăn ở thất đức để cho chúng chịu khổ (21) chứ chưa đợi đến người ngoài chê bai dè bỉu nữa.
c) Quan niệm về duyên nợ
Xuất phát từ thuyết nhân duyên trong giáo lí nhà Phật, quan niệm duyên nợ của người Việt cho rằng duyên là điều may mắn khiến ta gặp được người hay việc như ý, đem lại phúc lợi; còn nợ là điều trái nghịch. Thí dụ đôi trai gái gặp gỡ nhau, yêu nhau, đi đến hôn nhân và cuộc sống lứa đôi này có hạnh phúc thì đó là hai người có duyên số với nhau đem lại cho nhau cái duyện phận tốt đẹp (22). Ngược lại, sau khi thành hôn mà cuộc sống chung giữa hai người lủng củng, “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, cuối cùng “anh đi đường anh, tôi đường tôi”; hoặc có khi bỏ nhau không được mà phải chịu đựng nhau suốt đời (23) thì đó là nợ đối với nhau từ kiếp trước, kiếp này phải gặp nhau để trả cho xong:
Chồng gì anh, vợ gì tôi,
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!
Mỗi người một nợ cầm tay,
Người xưa nợ vợ, người nay nợ chồng! (ca dao)
Từ đó suy ra mọi cuộc gặp gỡ khác cũng thế, gặp được người bạn tri âm tri kỉ, ý hợp tâm đầu đem lại cho ta lợi ích về mọi mặt, ấy là duyên may; còn gặp phải kẻ lừa thầy phản bạn làm ta thiệt hại, ấy là kiếp trước ta nợ nó, kiếp này ta phải trả. Cũng vậy, ta có được đứa con hiểu thảo, chịu báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, đó là mối phúc duyên được gieo trồng từ kiếp trước; còn gặp phải đứa “phá gia chi tử”, bất hiếu bất mục, ấy là “cái của nợ” kiếp trước mình nợ nó mà chưa kịp trả, hay chưa trả sòng phẳng nên kiếp này nó đầu thai vào làm con để nó phá, nó đòi nợ.
Vậy dù là duyên hay nợ thì cũng không phải sự ngẫu nhiên tình cờ, mà đều là nhân gieo từ trước đưa đến quả ngày nay. Quan niệm này theo sát giáo lí nhân quả nghiệp báo của nhà Phật, có công dụng khuyến thiện lớn lao và dạy người ta có được đức nhẫn nhục kiên trì, có được sự can đảm luân lí rất đáng khâm phục ở người phương Đông nói chung, ở người Việt Nam nói riêng, đặc biệt là ở giới phụ nữ. Do đó trong xã hội xưa, gia đình giữ vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống quốc gia, mà đức nhẫn này là thứ keo sơn có độ bền chắc cao đã giúp tránh được cho gia đình biết bao đổ vỡ, li tán mà ở xã hội Tây phương người ta không tránh được.
d) Vai trò giám sát và yểm trợ của quỉ thần
Những quan niệm luân lí chịu ảnh hưởng sâu đậm của giáo lí đạo Phật nêu trên là của tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam. Nhưng không phải tất cả trong số đó ─ kể cả tín đồ Phật giáo ─ đều hiểu thấu đáo giáo lí của đức Phật. Ngoài ra còn phải kể đến một thiểu số nhà nho cực đoan không những không tin Phật mà còn có thái độ bài bác đạo Phật. Khi họ làm lành tránh dữ, hoặc khi họ có những uẩn khúc, gặp những nỗi oan ức trong cuộc đời mà con người không lí giải được thì họ vẫn cần đến niềm tin siêu hình: tin vào Trời Đất quỉ thần. Nhưng Trời ở cao xa quá, có khi không thấu hết được mọi việc của con người dưới trần (“Oan này còn một kêu Trời, nhưng xa” – Kiều). Đến đây thì sự hiện diện của quỉ thần ở khắp nơi là cần thiết. Các vị ấy có nhiệm vụ giám sát, làm chứng (chứng giám) cho mỗi lời nói, hành động, kể cá ý nghĩ thiện ác (24) của con người, điều này cần thiết cho sự phán xét, thưởng phạt về sau.
Thật vậy, người xưa tin rằng luôn luôn có quỉ thần ngự ở trên đầu trên cổ mỗi người. Cho nên khi cần nhấn mạnh đến sự trung thực của mình, hoặc trong trường hợp thật quan trọng cần phải thề bồi để người khác tin mình, người ta thường viện đến “quỉ thần hai vai” chứng giám cho mình (tôi nói có quỉ thần hai vai chứng giám, hoặc tôi xin thề có quỉ thần hai vai chứng giám).
Ngoài ra, ở mỗi nhà đều có thờ Thổ công là vị thần cai quản khu đất của nhà đó, chứng giám cho mỗi hành vi của gia chủ và của mỗi thành viên trong gia đình. Vị thần này có khi được đồng hoá với Táo quân (tức “Vua Bếp” với sự tích “Hai Ông một Bà” đã kể ở chương thứ chín) mà nhà nho gọi một cách trịnh trọng với danh hiệu là “Đông Trù Tư mệnh Táo phủ thần quân”.
Trong những cuộc tranh cãi mà thiếu hẳn nhân chứng ngoài cuộc vô tư, người phân xử không biết dựa vào đâu để đưa ra biện pháp giải quyết, người ta thường chọn một ngôi đền linh thiêng trong vùng để đôi bên tranh chấp đến trước bàn thờ, thắp hương làm lễ Thánh, kể lể nội vụ rồi xin thề là nếu dám nói sai trước cửa Thánh thì xin “Ngài vật chết hộc máu ra!”. Dĩ nhiên chẳng thần thánh nào lại chịu làm quan toà và dùng đến hình phạt nặng nhất ấy để phân xử những cuộc cãi lộn vặt vãnh, nên rút cuộc là … hoà cả làng, vì đã đưa đến cửa Thánh là hết mức, là chung thẩm rồi, thế mà Ngài im lặng, không trừng phạt ai là Ngài muốn đôi bên…huề!
Sự chứng giám của quỉ thần kể trên chỉ là thụ động. Người xưa còn tin rằng người ngay lành thường được quỉ thần phù hộ chống lại mọi thế lực tà quái, không cho chúng xâm phạm đến. Chẳng hạn khi có việc cần đi ra ngoài vào lúc đêm tối (thời gian thuộc về âm, tà ma hay xuất hiện vào lúc này) qua những chỗ hoang vu, nơi tha ma mộ địa, người yếu bóng vía mà có niềm tin thì niệm Phật, người ngay lành mà bạo dạn thì cứ việc đi ngang nhiên vì tin rằng tà ma bao giờ cũng sợ người chính trực.
Vào thời kì bệnh dịch hoành hành khiến nhiều người chết, ấy là lúc âm thịnh dương suy, Diêm vương sai các thần ôn dịch đem lũ âm binh lên trần “bắt lính”, dĩ nhiên những kẻ gian tà tội lỗi thì phải bắt trước. Mấy nhà nho tự tin mình sống quang minh chính đại thì tà khí không dám xâm phạm. Do đó có người thấy ban đêm âm khí lạnh lẽo, chắc là đạo âm binh đang đi lùng bắt nạn nhân của chúng (gieo bệnh) bèn thắp đèn sáng trưng trong nhà, kể cả trên các bàn thờ, đốt hương trầm ngào ngạt, khăn áo chỉnh tề rồi ngồi ngay ngắn trên cái sập kê giữa nhà và đọc bài “Chính khí ca” của Văn Thiên Tường (25) để cho thần ôn dịch và lũ ma quỉ e dè mà tránh xa.
Tạm gác khía cạnh phi khoa học của niềm tin này, chỉ xét về phương diện luân lí trong xã hội xưa thì đây là một quan niệm lành mạnh khuyên con người sống ngay thẳng hiền lương để được các thế lực siêu hình ủng hộ. Những con người như vậy luôn luôn bình tĩnh can đảm giữ vững niềm tin vào lí tưởng thiện và thái độ “cây ngay không sợ chết đứng” trong mỗi cơn bão táp của cuộc đời.
e) Sự Việt hoá bằng tinh thần trọng thực tế
Như đã trình bày nhiều lần, dân tộc Việt vốn không cuồng tín, không tin theo một điều gi một cách cực đoan mù quáng. Cuộc sống vất vả của họ (vật lộn với thiên nhiên, chiến đấu chống ngoại xâm, tranh đấu chống áp bức bất công xã hội, kể cả áp bức về tinh thần như sự độc tôn độc quyền cho một tư tưởng nào đó) khiến họ biết quí trọng những giá trị thực tế song song với những giá trị siêu việt:
Có thực mới vực được đạo (tục ngữ)
Ông bà ta xưa đã phân biệt cái ăn cái mặc cho đầy đủ đời sống vật chất chỉ là phương tiện để đi đến cuộc sống hoàn hảo về đạo lí. Dù cho trọng đạo thì mỗi người cũng cần biết khả năng của mình đến đâu, mục đích tu thân để làm gì, thấy rõ những khó khăn trong việc tu tập để đặt mục đích cho vừa sức, từng bước thận trọng:
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. (ca dao)
Con người cũng phải kiến tạo hạnh phúc từ trong gia đình là nơi mình sinh ra cho tới ngoài quốc gia, xã hội là môi trường mình phải sống chung với đồng bào, đồng loại; sau khi mọi sự tốt đẹp rồi mới vượt lên cõi siêu thoát. Còn như thấy sức mình có hạn thì hãy cố gắng để trở nên con người tốt thật chớ đừng trở nên bồ tát giả hiệu:
Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm. (tục ngữ)
Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối. (tục ngữ)
Để khuyến khích con người làm lành tránh dữ, đại chúng Việt mong muốn sự thưởng thiện phạt ác được thực hiện ở ngay đời này, chứ đừng đợi mãi đến đời sau:
Đời xưa quả báo thì chầy,
Đời nay quả báo thấy ngay nhãn tiền. (ca dao)
Đó là nguyên do cắt nghĩa tại sao trong hầu hết các truyện nôm dù thuộc khuynh hướng bình dân hay bác học, cái kết cục thường là “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” đâu ra đó, mà nhiều khi “cha ăn mặn thì cha khát nước” chứ chưa đợi đến đời con.
Và cũng để hợp với lòng mong muốn cả về tình lẫn lí của mọi người, luân lí quan chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng cũng cho con người phạm tội có cơ hội hối lỗi chuộc tội để khỏi bị trừng phạt. Nói theo giáo lí nhà Phật thì con người có thể chuyển nghiệp bằng sự sám hối. Hai chuyện cổ tiêu biểu cho hành động chuộc tội có kết quả là “Cái cân thuỷ ngân” và “Thủ Huờn”. Trong chuyện trên, hai vợ chồng nhà buôn giàu có nhờ buôn gian bán lận bằng cái cân cán rỗng trong đổ thuỷ ngân, đáng lẽ Trời phạt bằng cách sai hai con quỉ đầu thai vào làm con để phá của, nhưng sau nhờ họ biết hồi tâm hối cải phá bỏ cái cân kia đi rồi tu nhân tích đức nên Trời bắt hai con quỉ về (hai đứa con chết) và cho hai đứa con khác tốt lành để hai vợ chồng được sung sướng trọn đời. Trong chuyện dưới, thủ Huờn làm thơ lại, ăn ở bất nghĩa, cho vay nặng lãi mà trở nên giàu có. Sau vợ chết lại không có con, tình cờ đi chơi, ông ta gặp vợ từ dưới âm ti đi chợ trên trần, bèn theo vợ xuống âm phủ để xem cho biết. Đến một cái ngục, thủ Huờn thấy một cái gông lớn mà không có tội nhân, hỏi quản ngục thì đươc biết cái gông để sẵn đó để chờ… thủ Huờn. Sợ quá, ông ta vội vã trở về nhà sám hối, bố thí hết của phi nghĩa nên khỏi tội (26).
Như vậy luân lí quan của dân tộc Việt, với thuyết nhân quả và nghiệp báo của đạo Phật, thừa nhận con người có tự do và có trách nhiệm về ý nghĩ, lời nói và hành động của mình:
Tay chém thì vai (phải) vác. (tục ngữ)
Và nếu con người cố gắng phấn đấu để cải thiện hoàn cảnh thì có thể vượt qua được nghịch cảnh (thật ra là sám hối một cách tích cực bằng các việc làm lành để chuyển nghiệp dữ thành nghiệp lành) như cuộc đời của Thuý Kiều trong lời nhận xét của bà Tam Hợp đạo cô đã dẫn ở trên. Hai câu trong Truyện Kiều tiêu biểu cho niềm tin này là:
Có Trời mà cũng tại ta. (lời bà Tam Hợp)
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. (lời Kim Trọng)
Ngay đối với tin tưởng của đại chúng vào vai trò cứu khổ cứu nạn của đức Bồ tát Quán Thế Âm tức là sự tin tưởng và cầu mong tha lực tế độ thì cũng phải là kẻ thiện nhân thì mới dễ mong gặp được sự cứu vớt đó.
Nhờ có lòng tin mạnh mẽ sâu xa vào những giá trị đạo đức và thế lực siêu phàm, dân tộc Việt Nam sau bao đời suy ngẫm và đúc kết những kinh nghiệm trong cuộc sống đã hình thành được một hệ thống quan niệm luân lí phong phú và sâu sắc. Nó không phức tạp với những lí thuyết cao vời mà theo sát với đời sống thực tế đủ để con người tin theo và sống thiện hầu vượt qua được những thử thách của cuộc đời, đạt được hạnh phúc trong kiếp này và những kiếp sau, cho mình và cho các thế hệ kế tiếp, và sau hết vươn tới đích cuối cùng là sự GIẢI THOÁT VĨNH CỬU.
Chú thích chương thứ mười
(1) Luân lí hiểu gọn lại là một hệ thống trật tự trên dưới giữa các thành viên của một tập thể con người, cùng những qui định về bổn phận hỗ tương mà các thành viên phải tuân theo để cư xử với nhau trong cuộc sống chung hầu được trên thuận dưới hoà.
(2) Vuông tròn còn tượng trưng cho sự thành công hoàn toàn như mong ước. Thành ngữ “mẹ tròn con vuông” chỉ sự sinh nở được xuông xẻ của người đàn bà (xưa kia được coi là cực kì khó khăn nguy hiểm), cả hai mẹ con đều được mạnh khoẻ. Trong Truyện Kiều, Thúc sinh muốn gắn bó với Kiều:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
(3) Giáp hạt: thời điểm giao tiếp giữa hạt thóc của mùa cũ đã hết mà hạt của mùa mới chưa chín. Xưa kia nông dân Việt Nam có 2 vụ gặt chính là vụ chiêm (tháng 5 âl.) và vụ mùa (tháng 10 âl.) Vậy thời kì giáp hạt dễ xẩy ra nạn đói là vào các tháng 3 và 8 âl. Như nạn đói năm Ất Dậu (1945) diễn ra dữ dội nhất ở miền Bắc khiến hơn 2 triệu người chết là vào tháng 3 âl. năm đó.
(4) Giả sử trường hợp Tiên Dung mà rơi vào một cô tiểu thư khuê các của thời quân chủ sau này (thật sự khó có thể xẩy ra) thì cô gái ấy tự cho mình đã thất tiết với chàng trai kia, nhưng sẽ phải xin phép cha mẹ đàng hoàng; nếu cha mẹ nhất định phản đối thì cô nàng nhất quyết không lấy ai để thủ tiết.
(5) Một ông vua độc đoán của chế độ quân chủ khắt khe sau này thì nàng công chúa sẽ bị giam lỏng trong cung, còn chàng trai có thể lâm nguy để bảo toàn danh tiết cho nàng công chúa.
(6) Bốn vị thần thiêng mà không phải trải qua hiện tượng chết: Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên vương, (bay lên trời), Thần núi Tản Viên và công chúa Liễu Hạnh. Bà sau này là con gái Ngọc Hoàng, lần đầu giáng trần có đầu thai và rồi vô bệnh mà mất; nhưng đó chỉ là cái chết che mắt thế nhân; sau đó bà trực tiếp trở lại cõi trần mà không cần đầu thai gì cả.
(7) Thời Hùng vương, chưa có Phật giáo để truyền vào Việt Nam, từ “Tây cung” cho thấy lúc này Chử Đồng Tử đã được suy tôn như một vị vua, và thời kì suy tôn này đã sang chế độ quân chủ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa.
(8) Câu chuyện truyền miệng trong dân gian thì bà mẹ ra vườn thấy vết một bàn chân người khổng lồ bèn ướm thử, từ đó thụ thai.
(9) Lão tử, “Đạo Đức Kinh”, ch. 73: “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất”.
(10) Theo tinh thần luật pháp thời nay thì phải đem các can phạm ra toà (tức người thứ ba, đứng ngoài cuộc) xét xử thì mới công bằng vô tư được. Ở đây, Kiều tha cho Hoạn Thư vì y thị khéo nói mà lại giết bọn tay sai đày tớ là Ưng, Khuyển thì không đúng.
(11) Tương tự như luật talion bên Tây phương thời xưa.
(12) Điều này theo tín ngưỡng Phật giáo là do một con người huân tập (tích luỹ dần dần) được những chủng tử thuộc loại này từ nhiều kiếp trước và đem theo được sang kiếp này.
(13) Người khác là ngoài bản thân ra, kể cả người thân trong gia đình như cha mẹ, vợ con, anh chị em v.v… Dĩ nhiên là hành vi đạo đức càng mở rộng phạm vi bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, kể cả muôn loài, như Phật từ bi thương xót cứu vớt tất cả chúng sinh.
(14) Phù đồ: chuyển âm hán việt từ tiếng Phạn (Sanskrit) stũpa là cái tháp. Nghĩa cả câu là dù bỏ tiền của ra xây ngọn tháp cao chín tầng thì phúc đức cũng không bằng cứu sống một mạng người.
(15) Ở đây còn động cơ “tâm” nữa: đó là sự cố ý hay vô tình. Thí dụ một ông thầy thuốc vì bất cẩn cho lầm thuốc làm chết bệnh nhân thì tội nhẹ hơn là thiếu lương tâm nghề nghiệp chỉ vì bệnh nhân nghèo mà không chịu chữa trị để người ta chết. Còn một ông quan toà buộc lòng phải xử tử một tên tướng cướp ác ôn đã giết hại nhiều người để cứu những nạn nhân tương lai của nó; hoặc trong hoàn cảnh xã hội hỗn loạn phải “sát nhất nhân, vạn nhân cụ” để tái lập trật tự thì hành động giết người này lại được phúc nhiều tội ít. Ngoài ra có những trường hợp cùng gieo một loại nhân mà hái quả khác nhau, điều này tuỳ thuộc vào yếu tố phụ khác nhau; như hai người cùng phạm một tội, nhưng người trước kia có công đức thì được giảm khinh, còn kẻ kia trước đã gây tội nhiều thì phải gia trọng.
(16) Trường hợp này người xưa thường tin vào địa lí phong thuỷ cho là “được mồ, được mả”: mồ mả ông bà, cha mẹ để được vào chỗ đất kết phát. Nhưng đó chẳng qua là do có phần phúc đức, âm đức dầy dặn: tích luỹ được nhiều việc làm thiện, gieo được nhiều nhân lành, cấy được nhiều ruộng phúc từ trước.
(17) Ở đây chúng tôi không làm công việc giảng giải những lí thuyết thuần tuý Phật giáo, mà chỉ nói về nhưng tin tưởng của dân tộc ta chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Song trong trường hợp này, chúng tôi nghĩ rằng có thể giải thích bằng thuyết biệt nghiệp và cộng nghiệp (xem chú thích số 21).
(18) Người ta thường kể chuyện ông Bành tổ thời thượng cổ sống 800 tuổi, con cháu ông chết non nhiều, mới kiện với Diêm vương, thì té ra ông ấy lọt sổ tử. Diêm vương sai quỉ sứ đi bắt. Tên quỉ lãnh nhiệm vụ lên cõi trần lùng tìm, không biết ai là ông Bành tổ. Chợt nó thấy một ông già lụ khụ đang ngồi câu cá bên bờ sông, bèn đến gần (dĩ nhiên nó phải đội lốt người bình thường) hỏi rằng: “Thưa cụ, cụ có thấy hòn đá tôi vừa ném xuống ở khúc dưới trôi tới đây không?”. Ông cụ thấy kẻ hỏi chuyện ngược đời bèn đáp: “Ta sống đã 800 tuổi rồi mà chưa hề thấy việc ngươi vừa hỏi xẩy ra bao giờ!”. Thế là tên quỉ lôi ông cụ về cõi âm!
(19) Tục ngữ: “Của làm ra để trốc gác, của kiếm chác để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ”. Của làm ra là của có được do mồ hôi nước mắt, có chính nghĩa nên bền lâu.
(20) Chữ hán 天 (thiên: trời, duyên trời định) mà nhô cao nét phảy lên khỏi nét ngang thành chữ 夫 (phu: chồng). Chữ 了(liễu là xong, là hết, chứ không phải là cây liễu 柳 , ở đây thi sĩ chơi chữ đồng âm) mà thêm nét ngang thành chữ 子 (tử: con).
(21) Thật ra là cái biệt nghiệp xấu của những đứa con ấy khiến chúng phải chịu quả báo là vào làm con nhà thất đức để cùng chịu khổ (cộng nghiệp).
(22) Cho nên trong ngôn ngữ thông thường, việc hôn nhân cũng gọi là việc nhân duyên.
(23) Người xưa coi việc li dị là xấu phải cố tránh, nhất là ở những thế gia vọng tộc; hoặc ở vào tuổi cao niên, con cái đã lớn, cha mẹ bất hoà vẫn phải hi sinh chịu đựng nhau vì hạnh phúc của đàn con; ở xã hội xưa con cái có cha mẹ li dị rất khó lấy được vợ hay chồng con nhà tử tế. Trần Tế Xương, trong một bài thơ ca tụng công lao tần tảo của vợ và cũng để tự trách mình thiếu bổn phận làm chồng, cũng nói:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
(24) Trong chuyện “Chưa đỗ ông nghè” do Nguyễn Văn Ngọc kể trong “Truyện Cổ Nước Nam” (tập I – Người ta), anh học trò sau khi biết mình sẽ thi đỗ ông nghè, khi ngồi dưới trăng đã nẩy ra ý nghĩ sẻ bỏ người vợ xấu để lấy cô vợ khác đẹp hơn. Thế là sổ Thiên đình đã ghi tội “nguyệt hạ phóng thê” (dưới trăng bỏ vợ) và gạch tên không cho đỗ nữa. Giáo lí nhà Phật cũng dạy “nhất niệm khởi, thiện ác dĩ phân” cho ý nghiệp khởi từ tâm là gốc đưa đến lời nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(25) Văn Thiên Tường là vị tể tướng cuối cùng của nhà Tống. Ông bị quân Mông cổ bắt giam trong ngục ở Yên kinh 4 năm để dụ hàng, song ông cương quyết giữ vững khí tiết, không chịu khuất phục và cuối cùng bị giết. Bài “Chính khí ca” được ông làm trong khi bị giam để tỏ chí bất khuất ấy.
(26) Theo Hoàng Trọng Miên trong VNVHTT q. II thì con sông Nhà Bè thuộc tỉnh Gia Định sở dĩ có tên này là do thủ Huờn dựng một cái nhà bè trên sông để bố thí hết của cải. Ngoài ra ở Biên Hoà cũng có một ngôi chùa mang tên nhân vật này vì ông ta bỏ tiền ra dựng nên để sám hối.