Bài hát vang lên từ chiếc radio nhỏ:

“Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính

Lúc sống có nhau là huynh đệ chi binh
Lúc chết có nhau là huynh đệ chi binh
Sống chết có nhau là huynh đệ chi binh
A! La la la…”

Tôi cũng như toàn dân miền Nam Việt Nam trước năm 1975, ai mà chẳng âm ư bài hát “Huynh Đệ Chi Binh” của nhạc sĩ Anh Bằng. Nhạc sĩ viết “huynh đệ chi binh” là tình thương yêu, đùm bọc nhau của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, của những người lính trong binh chủng, đơn vị của mình nói riêng. Sự gắn bó thắt chặt và yêu thương nhau đến từ anh chàng “deuxième cùi bắp” lên đến ông tướng, ông tá, ông úy,… Nói nó là “mối tình chân” của lính với nhau quả không sai.

Nhạc sĩ Anh Bằng, trong khuôn khổ bài nhạc, chỉ có thể sơ lược và đưa ra được một vài ý chính trong tình lính. Còn với khuôn khổ một quyển sách thì tác giả Tô Văn Cấp trong “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” đã dùng ngòi bút ký gửi đến độc giả tình anh lính chiến mới thật là hết ý hết tình.

Tình đồng đội TQLC ở chiến trường, tình người TQLC chỉ huy và cấp thừa hành đối với nhau sau ngày “gãy súng”, tuy giấy rách nhưng vẫn còn lề.

Huynh Đệ Chi Binh TQLC” – Tô Văn Cấp: Cuốn sách chúng ta đang cầm trên tay, còn vẽ lại nhiều hình ảnh và nhiều câu chuyện lính mà chỉ những người ở chiến trường khốc liệt, sống – chết cận kề mới cảm nhận được. Bên cạnh đó chúng ta cũng nhìn thấy được đời lính ở hậu cứ, khi nghỉ xả hơi, khi quậy phá, khi say xỉn, khi bị xử phạt, khi nghiêm chào thượng cấp, và rất nhiều “khi …” mà người dân thường không thể tưởng tượng ra được.

 Đối với “Trâu Điên – Tô Văn Cấp”, quan niệm lớn nhất, chính đáng nhất để sống trong đời là “Sống chết có nhau”. Trong “Huynh Đệ Chi Binh TQLC”, tác giả chỉ muốn nhắc nhở chúng ta – những người đang có trên tay quyển sách – sự thương yêu vô bờ bến của người lính với nhau, sự nhớ ơn của người dân ở khắp nơi trên vùng đất miền Nam Việt Nam trao cho những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trước và sau 1975.

Quả là đúng như vậy. Sự việc và di chứng chiến tranh cho đến ngày nay, ngót năm mươi năm sau 1975 vẫn còn đấy những nỗi đau. Những nỗi đau của người Thương Phế Binh vì đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương, cho Tổ Quốc VN, nỗi đau mất người thân yêu của những người vợ và con người tử sĩ, lấy gì bù đắp lại cho đủ!?

 Lời mở đầu cho quyển sách “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” là lòng biết ơn sâu xa của người đọc và mời quý vị độc giả bước vào tình “Huynh Đệ Chi Binh” – Tô Văn Cấp để hòa vào đời lính và tình lính. Và rồi, để ôm nhận những người lính Việt Nam Cộng Hòa vào lòng như một lời tri ân của người dân thời Việt Nam Cộng Hòa Đệ I và Đệ II. ⬛

Doãn Cẩm Liên

Bao năm quần thảo với địch quân để giữ vững miền Nam, vô số lần đau đớn đến xé lòng khi nhìn đồng đội gục ngã, để rồi cuối cùng phải buông súng và bị trả thù một cách man rợ trong những trại tù. Đó là tóm tắt binh nghiệp quá nhiều khổ đau, cay đắng của hầu hết những người lính tác chiến VNCH.

Tuy vậy, mấy mươi năm sau, khi gặp lại nhau, họ vẫn hàn huyên mãi về quãng đời gian nan nhưng hào hùng đó. Cây bút Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Tô Văn Cấp cũng thế, nhưng ông không chỉ nói mà còn miệt mài ghi lại trong nhiều bài viết.

Tôi quen ông qua nhịp nối của những bài viết đó, và tôi gọi ông một cách thân tình là “Chú Cấp”.

Chú Cấp viết nhiều, nhưng, không phải vì muốn làm “nhà văn”. Viết là cách chú chia sẻ những tiếc thương cho người đã khuất, những băn khoăn cho các chiến hữu còn chật vật ở quê nhà, và thăm hỏi những người còn sống. Chú tâm sự nhẹ nhàng: “Nay đã bước vào tuổi tám mươi có lẻ, tuy không khoẻ, nhưng còn tỉnh táo nhớ đến quý anh, viết lên trang giấy để nhớ lại một thời còn súng đạn đầy đủ là niềm hạnh phúc…

Chú ghi lại chuyện lính, chuyện hậu phương, và cả chuyện tù như người mẹ già thu góp yêu thương – hơi gấp gáp nhưng vô cùng tha thiết v để trao cho những đứa con, lúc cuối đời.

Tuyển tập “Huynh Đệ Chi Binh Thuỷ Quân Lục Chiến” còn đặc biệt hơn nữa vì các bài viết không chỉ là lời của riêng chú Cấp mà còn từ nhiều chiến sĩ Mũ Xanh khác. Mỗi người một chuyện nhưng đều là kỷ niệm quý giá về tình đồng đội gắn bó chẳng kém gì ruột thịt.

Là những ký ức không thể nào quên nên các câu chuyện đều rất thật, chính xác đến từng ngày tháng. Hồi hộp và đầy tự hào là chuyện sát cánh nhau trong gian khổ, hiểm nghèo như khi Tiểu Đoàn Trưởng Đồ Sơn suốt đêm dẫn dắt và giữ vững tinh thần cho binh sĩ đang chiến đấu giữa vòng vây địch. Vui và cảm động là những chuyện về các cấp chỉ huy đối xử với thuộc cấp bằng sự cảm thông, độ lượng như Tiểu Đoàn Trưởng Sông Hương Phạm Văn Sắt ra lệnh cho Ban Quân Lương ứng trước tiền lương cho lính về thăm nhà.

Ấm áp là các chuyện về những lần chia sẻ từng miếng cơm khô, điếu thuốc ướt giữa các chiến sĩ TQLC, từ vị sĩ quan cho đến người chuẩn úy mới về trình diện. Nhưng nhiều nhất vẫn là những chuyện đau lòng từ chiến trường.

Trong phạm vi của các bài viết ngắn, những sự việc khốc liệt năm xưa chỉ được nhắc một cách ngắn gọn, nhưng nếu lắng lòng, người đọc vẫn cảm thấy niềm đau đớn của những vết thương không bao giờ lành hẳn. Chẳng hạn như những lời đứt ruột khi chú Cấp nghe tin các bạn cùng khoá, cùng Binh Chủng TQLC là Thiếu Úy Võ Thành Kháng và Nguyễn Văn Hùng vừa ra trường đã hy sinh trong trận Bình Giả ngày 31/12/1964:

Chúng tôi vừa tốt nghiệp ngày 28/11/1964, mới hưởng xong 15 ngày phép mãn khóa. Những cặp lon Thiếu Úy TQLC kim tuyến trắng tinh, chưa dính bụi trần, tưởng như vẫn còn hương thơm và dấu tay của người yêu, nay vừa mới ra trận đã nhuộm máu! Các bạn tôi đã hy sinh, đã trả xong nợ nước trong khi các đồng khóa khác còn đang ngồi chờ lệnh bổ nhiệm về đơn vị!

Hay ký ức của chú Cấp về hai đồng đội Phạm Văn Sắt và Nguyễn Văn Hưởng:

Sáng 29/3/1975 ở bờ biển Non Nước, anh Sắt và tôi ôm poncho bơi bên nhau, khi sắp ‘hy sinh vì nước’ thì được kéo lên tàu Hải Quân. Để ăn mừng, anh móc túi áo ra bao thuốc lá Ruby Queen còn vài điếu chia nhau, thuốc ẩm ướt, châm mãi cũng chưa cháy thì nghe bên hông tàu nhiều tiếng la, ‘Rớt xuống rồi!

(Đại Úy Nguyễn Văn Hưởng K17 Thủ Đức được anh em kéo lên, nhưng nửa chừng thì tuột tay rơi trở lại và Hưởng mất tích từ đó.)

 Đắng cay nhất mà cũng đáng quý nhất là những câu chuyện các chiến hữu chia sẻ đùm bọc nhau trong tù ngục. Như câu chuyện đêm Giáng Sinh, 1975 trong bài “Như Mới Hôm Qua” đã làm người đọc nghẹn ngào:

Tôi không ngủ được vì lý do cái lon Guigoz chè mà Hợp giao cho tôi nấu hồi chiều đã bị đổ hết rồi! Tôi treo lon Guigoz chứa ít vỏ bí ngô và nước vo gạo lên cái móc sắt ở đầu khúc cây, gọi là ‘cần câu’ để đưa lon Guigoz vào lò nấu cơm của nhà bếp trại tù. Chẳng may sơ ý để sâu vào giữa lò, lửa nóng quá, cháy đầu cần câu, lon Guigoz rớt xuống đống than hồng, ‘cao lương mỹ vị’ bị vùi vào trong đống tro, tôi tưởng như mình bị rơi xuống địa ngục!

Chỉ những lời đơn giản thế thôi, nhưng như bóp vào tim. Những chiến hữu dành dụm từng chút thức ăn nhặt được để chia sẻ với nhau. Phải thương nhau đến thế nào thì người lính từng dạn dày gian khổ mới đau xót như “rơi vào địa ngục” khi làm vuột mất niềm an ủi hiếm hoi của anh em.

Nhưng sau lúc nghẹn ngào, “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” lại có những đoạn dí dỏm, khôi hài như chuyện chàng thương bệnh binh Tô Văn Cấp khổ vì cái đào hoa của người bạn Nguyễn Kim Tiền nằm giường bên cạnh, hoặc kỷ niệm vui như câu chuyện của Mũ Xanh Trần Như Hùng khi vào trình diện Tango-Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn, vì tội đánh nhau:

Vào trình diện, Ông ngó tôi chằm chằm một lúc rồi phán:

Cái mặt học trò mà muốn có bộ giò ăn cướp hay sao mày?

Nghe tôi trình bày xong thì Tango nhếch mép mỉm cười:

Đúng là thằng ngu hết cỡ, hết chỗ rồi sao mà về đây đánh lộn?

Tôi nhớ hoài cái nhìn và nụ cười mỉm của Ông… Từ đó trải qua bao sóng gió, sau 30/4, nghe tin Ông cũng ở lại và chịu cảnh tù đày tang thương, rồi nhận Houston làm quê hương tạm dung, tôi ước ao được một lần nhìn lại ông.”

Như thế đó, các chiến sĩ TQLC, dù đã tan tác khắp thế giới, vẫn còn kết nối với nhau và nhắc mãi những ân tình năm xưa.

Quyển “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” là “bộ sưu tập” nhũng lời chân thành của các người lính viết cho nhau. Nhiều nhân vật đã qua đời, vì thế khá nhiều đoạn trong tuyển tập chính là những bài điếu văn của các chiến sĩ Mũ Xanh dành cho đồng đội vừa ra đi. Đó là những lời chia sẻ từ trái tim còn đang rơi lệ, không còn mục đích nào ngoài sự tiếc thương và tưởng nhớ quãng đời bên nhau.

Bên cạnh những bài viết của Cọp Biển cho Cọp Biển, tuyển tập có sự góp mặt của những chiến hữu từ các sư đoàn bạn. Ly kỳ và cảm động đến rơi nước mắt là lời kể của một Thiếu Úy Không Quân bị trọng thương được TQLC cứu giữa chiến trường:

Hai anh lính TQLC lại bò đến bên tôi, một anh nằm sát đất, anh kia nâng tôi lên lưng anh nọ, rồi cả ba trườn vào nơi ẩn núp, nơi tuyến đầu xen kẽ cài răng lược giữa quân ta với địch.

Còn nữa là những chuyện các chiến sĩ VNCH cưu mang nhau sau khi đã gãy súng, tan hàng vì vận nước. Những “chàng” lính ngang tàng, đã từng đầu đội trời, chân đạp đất, nay chịu đứng cả ngày trước cửa chợ để bán vé cho Nhạc Hội “Cám Ơn Anh – Người Thương Binh VNCH”. Người lính nằm trên giường bệnh cuối đời nhưng chỉ lo lắng ai sẽ thay mình giúp đỡ thương phế binh ở quê nhà. Và những người đã tìm kiếm các đồng đội đau yếu, neo đơn để an ủi, săn sóc họ cho tới khi vĩnh viễn chia tay.

Những thân thiết, hào hùng, tiếc thương, đau khổ, và cả uất nghẹn của đời lính tác chiến được kể lại bằng cách hành văn rất “lính”, rất mộc mạc. Nhưng chính sự đơn sơ đó đã chạm vào tim người đọc. Rải rác trong sách còn có những hình ảnh của các Mũ Xanh ngày còn tại ngũ, những thanh niên trẻ trung, ngời ngời sức sống dù có đứng bên cạnh đổ nát, hoang tàn. Nhìn hình rất nhiều người sẽ bâng khuâng nhớ thời thanh xuân của các trai hùng nước Việt ngày ấy và của cả chính mình.

Dù vui hay buồn, những câu chuyện trong tuyển tập này đều làm tôi bồi hồi. Buông sách, tôi mừng vì mình đã đọc. Đọc để thấm thía ý nghĩa ngàn cân của bốn chữ “Huynh Đệ Chi Binh”. Đọc để cảm kích và để trân trọng khi nhận ra rằng các câu chuyện này đang trở thành vô giá vì những người kể đang đi – quá nhanh – vào cõi già và miền miên viễn.

Một ngày TQLC là một đời TQLC,” câu nói của vị Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC đã trở thành câu nằm lòng của hầu hết các chiến sĩ Mũ Xanh. Nhưng sống cho xứng danh TQLC không phải là điều ai cũng làm được.

Vì thế, tuyển tập “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” quả thật là một làn gió mát cho người đọc hiểu được rằng hầu hết các Mũ Xanh vẫn giữ nguyên vẹn tinh thần TQLC, kính quý cấp trên, cưu mang cấp dưới, và thương mến nhau, không chỉ giữa những ngưới còn sống mà còn với cả những người đã khuất.

Cám ơn chú Cấp đã gom góp lại những lời viết cho nhau để người đọc được biết về tâm tình của các chiến sĩ TQLC.

Xin cám ơn tất cả những ký ức của các bác, các chú, các anh chiến sĩ VNCH trong tuyển tập đặc biệt này! ⬛

KHÔI AN

Như là một cái duyên, tôi được quen với chú, chú Captovan K19, tác giả bài viết về những Thương Phế Binh còn ở lại quê nhà, được post trên group “Tình Ca Alpha Đỏ”. Bài viết với lời văn thật nhẹ nhàng, giản dị như một lời tâm tình của người lính TQLC nói về đồng đội đã nằm xuống, và những người lính đã để lại một phần thân thể ngoài chiến trường để bảo về Miền Nam Tự Do.

Đọc văn của chú, chúng ta sẽ thấy một Captovan ngang tàng qua những bài viết về đời lính chiến, những bài viết thật xót xa về những thương phế binh, những người hùng trong chiến trận. Chúng ta cũng sẽ thấy một Captovan với những hỉ, nộ, ái, ố,… của cuộc đời, lời văn nhẹ nhàng nhưng không thiếu khôi hài thêm chút gia vị cay cay. Lời văn không màu mè hoa lá cành để cho bài viết thêm phần gay cấn hay lãng mạn, mà chỉ là những sự thật, những thảm cảnh mà ông đã chứng kiến trong đời binh nghiệp. Chính nhờ những bài viết này, chú đã giúp cho lớp trẻ chúng cháu hiểu thêm về sự hy sinh, thiệt thòi, những mất mát đau thương của người lính, giúp tuổi trẻ chúng cháu nhìn lại chính bản thân mình khi nhìn những người lính già với tấm lòng cảm phục mến thương.

Đọc xong “Huynh Đệ Chi Binh Thuỷ Quân Lục Chiền” của chú Cấp, gấp sách lại, vẫn thấy đâu đây hình ảnh oai hùng của người lính trong thời chiến, sự tương kính của nhữngười lình già người sau cuộc chiến, dẫu giấy rách nhưng vẫn còn những cái lề, tuổi trẻ bâng khuâng với câu hào hung pha chút khôi ài bi ai:

TQLC sống hùng, sống mạnh nhưng không sống lâu!

Ô! Thương mến quá, kính phục quá người lính chiến Việt Nam Cộng Hòa, nói chung, TQLC Việt Nam nói riêng!

***

“Anh em như thể tay chân.”

Anh em là tương ứng với hai chữ đầu của tuyển tập “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” của Thiếu Tá Thuỷ Quân Lục Chiến Tô Văn Cấp, người rất nặng tình với các thương phế binh đồng đội. Ông đã viết nhiều trên các tập san Quân Đội, một số hồi ký với quyển “Nửa Đường” và nay tuyển tập “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” là tác phẩm vừa mới hoàn thành. Một cuốn sách nói lên tình thân của đồng đội từ cấp chỉ huy đến người lính, từ những người đã vị quốc vong thân đến các thương phế binh với những chiến hữu nơi đất khách quê người.

Đây là cách đối xử giữa các quân nhân với nhau trong mọi quân, binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không phân biệt cấp bậc sĩ quan đối với lính hay ngược lại lính đối với sĩ quan. Cũng không phân biệt thời gian, giữa lúc ở ngoài chiến trường, hay khi sau trận đánh, kể cả lúc người vẫn còn, kẻ đã mất, giữa người lành lặn ở ngoại quốc với người thương tật còn kẹt lại quê nhà.

Để phù hợp với ý của tên cuốn sách, tôi xin đề cập tới những trường hợp trong Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến, trích trong cuốn “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” và trích thêm từ những bài của các tác giả khác trong bộ “Chiến Sử Thủy Quân Lục Chiến” của Y sĩ Thiếu Tá Trần Xuân Dũng.

Chúng ta hãy xem tình huynh đệ chi binh đã thể hiện ra sao, diễn tiến như thế nào tại những hoàn cảnh khác nhau.

Ngoài Trận Địa:

Tại chiến trường, cái chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, thế nhưng có những cấp chỉ huy, biết người đàn em của mình còn non nớt chưa đủ kinh nghiệm, nên tự ý đi ngay theo sát, để hướng dẫn, chỉ bảo:

Nguyễn Quốc Chính hy sinh vì tình ‘huynh đệ chi binh’, Chính không chỉ là tấm gương sáng của Khoá 20 Võ Bị, mà còn của TQLC…

 (Trích “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” – Tô Văn Cấp)

 Mùa Xuân năm 1971, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà mở cuộc hành quân sang Lào đặt tên là Lam Sơn 719. Trong muôn ngàn khó khăn của không gian đầy tiếng nổ long trời lở đất của hỏa tiễn, đại bác và xe tăng địch, Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ.2 TQLC đã đưa được Lữ Đoàn 147 TQLC trở về, với niềm đau sót đã không thể đem theo xác những anh em đã hy sinh.

Xin trích đoạn trong “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” đoạn viết của Thiếu Tá Phán – Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8:

… Phúc! Ông đã làm được tất cả những gì mà ông phải làm trong tình hình và hoàn cảnh bi đát như vậy. Thật sự ông đã làm được những việc mà không ai làm được. Ðã tròn với bổn phận, đã hết nhiệm vụ, ông không cần ai khen ngợi, ca tụng, ông không cần huy chương, ông cũng chả cần lon lá. Ông đang đau xót, đau xót tận cùng trong lòng của ông, khi nghĩ tới những thằng em, đồng đội của ông đang cô đơn, lạnh lẽo nằm rải rác đâu đó trên chiến trường Hạ Lào. Nhân danh một người bạn, cho tôi được nghiêng mình kính phục ông.

Cái hùng tính của Nguyễn Xuân Phúc, lại càng hiện rõ hơn, khi ông đã trở thành Trung Tá, và giữ chức Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369/TQLC.

Phải đọc lời kể của Thiếu Tá Tô Văn Cấp để thấy tình Huynh Đệ Chi Binh TQLC đã rất sáng, chiếm hết cả tim, óc của Nguyễn Xuân Phúc, không còn một khoảng nhỏ nào dành cho bản thân. Ông chỉ còn nghĩ đến cả một tiểu đoàn đang khó thoát.

Khoảng 9 – 10 giờ sáng 29/3/1975, khi hai tàu LSM đang tiếp tục kéo vớt những ‘Cọp Biển’ thì VC pháo kích, vài quả đạn rơi quanh tàu, nên tàu lui ra khơi, sóng nước kéo theo nhiều, nhiều cọp biển về ‘thuỷ cung’! Còn trên bờ, nơi hai Anh Phúc Tùng đứng đó chờ đón TĐ9 đang từ xa rút về thì một cơn bão lửa sấm sét mù trời khiến nhiều người về ‘thiên quốc’! Hai Anh Phúc Tùng ‘mất tích’ từ giờ phút đó!” (Trích “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” của Tô Văn Cấp)

Và vào lúc Sài Gòn hấp hối thì Đại Tá Tư Lệnh Phó TQLC Nguyễn Thành Trí vẫn liên tục chú mục trên tấm bản đồ hành quân. Ông đang chỉ huy mặt trận tại miền Đông Sài Gòn. Trong tâm trí và trái tim ông, chỉ còn có đơn vị và những thuộc cấp. Cần phải giữ danh dự cho Sư Đoàn và sinh mạng của đồng đội.

Trích đoạn viết của Đại Úy Lê Văn Châm:

 “… Vào khoảng 10 giờ đêm 28/4/1975 điện thoại liên lạc với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC ở Vũng Tàu cũng bị cắt đứt! Những sĩ quan tham mưu chúng tôi (Đại Úy Châm – Phòng 2, Trung Úy Sơn và Trung Uý Bá – Phòng 3, Đại Úy Lâm Xuân – Phòng 4, v.v…) không ai rời Trung Tâm Hành Quân một phút nào cả, cố gắng theo dõi điện đàm từ các nơi. Đại Tá Tư Lệnh Phó, với điếu thuốc Camel trên tay, tôi thấy Ông bình tĩnh lạ thường, đôi mắt hầu như không rời tấm bản đồ hành quân. Trong lúc những tin tức dồn dập lọt đến Trung Tâm Hành Quân, chúng tôi nghe tiếng điện thoại reo, tôi (Đại Úy Châm) vội nhắc máy lên thì bên kia đầu dây là bà Trí muốn nói chuyện với Tango, tôi trao máy cho Ông. Qua lời đối thoại, bà Trí cho biết: ‘Các sĩ quan dưới này họ lên tàu HQ hết rồi, ông về về…

Giọng Tango có vẻ gay gắt (nguyên văn): ‘Bà cứ đưa tụi nhỏ về Long Xuyên đi, tôi không thể bỏ các đơn vị mà đi được.’

Một lúc sau bà Trí gọi lại và Tango vẫn giữ nguyên quyết định ban đầu. Lúc này Ông thật cô đơn vì không thể liên lạc được với ai nhưng Ông vẫn bình tĩnh, một sự bình tĩnh đến lạnh lùng.

 (Trích “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” – Tô Văn Cấp)

Sách “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” của Thiếu Tá Tô Văn Cấp cũng đề cập tới một cách lo khác cho thuộc cấp. Đó là phần trích lời Mũ Xanh Giang Văn Nhân viết về Thiếu Tá Phạm Văn Sắt – Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/TQLC:

… Cả tiểu đoàn mừng rỡ, khi tan hàng họ hét to vang dội và túa chạy về văn phòng đại đội chờ nhận giấy phép. Anh em nào cũng mong cầm được tờ giấy phép, khi có nó trong tay là họ đi ngay nên số người trong doanh trại dần dần thưa thớt, Thiếu Tá Sắt cầm cây gậy nhỏ đi vòng quanh nhà ở của binh sĩ, nghe tiếng chuyện trò văng vẳng, ông bước vào nhà ngủ, bốn người lính hoảng sợ đứng nghiêm chào, ông thắc mắc hỏi:

Các em đã nhận giấy phép chưa?

Thưa Thiếu Tá chúng em đã nhận rồi.

Nếu có giấy phép rồi thì các em rời khỏi đây ngay.

Thưa Thiếu Tá chúng em không biết đi đâu bây giờ.

-Tôi đã cho đi phép tại sao các em không đi?

Quê chúng em ở xa, không có tiền biết ở đâu, thà ở lại trại có cơm ăn chỗ ngủ.

Các em đi theo tôi.

Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng dẫn bốn người lính xuống Ban Quân Lương và chỉ thị nơi đây làm giấy ứng tiền lương trước cho anh em này và cả cho những người cần về thăm gia đình ở xa.”

Những ngày cuối tháng 3/1975, Huế và Đà Nẵng mất:

… Đại Uý Tô Thanh Chiêu và Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam (Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 4) đã tử trận vào chiều 25/3/1975 tại bờ biển Thuận An. Xác Nam thì đưa về được Non Nước, còn Chiêu thì nằm lại cùng đồng đội, hơn 35 năm sau (2010), đồng bào thôn An Dương, Thuận An đã tìm được 132 bộ xương.

Đồng bào dưới xã hội chủ nghĩa đã ngưỡng mộ những TQLC hy sinh là “Hiển Hách” rồi đem an táng chung trong một ngôi mồ với 8 chữ:

THẬP LOẠI CÔ HỒN HIỂN HÁCH CHI MỘ’.”

  (Trích “Huynh Đệ Chi Binh TQLC” – Tô Văn Cấp)

Đống xương bên bờ sông Vô Định được các cô vẫn tưởng nhớ, vẫn ấp ủ trong mộng như là những người yêu vốn đã âu yếm, chăm sóc họ.

Và đống xương tại bờ biển Thuận An được người dân thương kính,vẫn tôn thờ trong tim như những anh hùng đã từng bảo vệ, che chở họ. ⬛

BẢO ANH TRẦN TƯỜNG VI