Hương cà-phê
Vưu Văn Tâm
Thằng Tám nắm tay ba và tung tăng chân sáo bước vào tiệm Đông Huê Trà Gia ở ngã ba Vườn Chuối. Chú Tư kêu hai tô hủ-tíu và ly cà-phê sữa nóng. Cái dĩa bánh tiêu và dầu chá-quẩy đặt sẵn trên bàn ngó thiệt là hấp dẫn. Trong lúc chờ đợi tô hủ tíu, chú kêu Tám “con lấy ăn đi” rồi rót một chút cà phê ra cái dĩa nhỏ. Thằng Tám lẹ làng xé một cái chân của cái giò-chá-quẩy rồi chấm với cà-phê và thưởng thức một cách ngon lành. Không nếm được vị đắng trên đầu lưỡi mà Tám chỉ thấy những giọt sữa ấm áp, ngọt ngào và hương vị béo ngậy, thơm tho của cái bánh chiên hấp dẫn. Hình ảnh thân thương đó vẫn còn in đậm trong trí nhớ mặc dù ba đã khuất núi từ lâu và thời gian đã phôi pha hơn nửa thế kỷ.
Ngày đó, ở các tiệm nước (tên thường gọi của các quán ăn ngày xưa) hay quán cà-phê thường pha cà-phê bằng cách cho cà-phê đã xay nhuyễn vào cái vợt bằng vải với một liều lượng nhất định. Họ nhúng ngập cái vợt vào nước sôi đựng trong cái ấm bằng nhôm ốm ốm, cao cao hay cái nồi bằng sành giống như cái siêu sắc thuốc để tận dụng hết chất đậm đặc, chất đắng của mớ cà-phê mịn. Cà-phê bán cho khách được rót ra từ cái vòi của bình và được pha chế sau đó tùy theo “gu” của khách hàng.


Cà-phê đen được rót vào cái ly thủy tinh nhỏ xíu gọi là ly “xây chừng”. Cà-phê sữa cũng được cho vào ly “xây chừng” với một lớp sữa mỏng dưới đáy ly và cà-phê ở bên trên. Cà-phê đen đá hay sữa đá được cho vào cái ly cao hơn. Nếu không thích vị đắng thì khách gọi “pạc-xĩu” với lượng sữa nhiều hơn lượng cà-phê. Riêng ly cà-phê “phin” còn được “rọng” trong cái chén bằng đá có đổ thêm nước sôi để giữ được độ nóng cũng như hương vị của cà-phê. Nhiều tiệm, quán còn cho thêm một chút bơ “Bretel” nhập cảng từ Pháp quốc để tăng thêm hương vị thơm tho, béo béo cho ly cà-phê và ít ra cũng giữ chân được các vị khách “ân nhân” thường xuyên đến ủng hộ.
Buổi sớm mai trên đường phố Sài-Gòn không hối hả, nắng đầu ngày chưa kịp len đến hàng ba mà quán xá đã tấp nập với khách khứa đông vui. Họ ngồi bên ly cà-phê nhâm nhi, hào hứng nói chuyện thời sự, chuyện làm ăn, buôn bán, chuyện chạy “áp-phe” hay kể lể nhau nghe chuyện gia đình và luôn cả những câu chuyện trên trời, dưới biển. Quán nào cũng có khách “ruột” của mình. Không hẹn mà gặp và nơi góc quán quen thuộc từ lối đi cho đến chỗ ngồi, họ cũng quen biết luôn những người bạn chung bàn. Những âm thanh ồn ào, vui tai và đôi khi có thêm sự góp tiếng của người chủ quán khiến cho không gian quán xá thêm phần thân mật, gần gũi.
Lớn thêm một chút, Tám thường lân la đến cái quán cóc ở đầu hẻm 399. Người ta uống cà-phê vào buổi sáng nhưng Tám hay ghé ở buổi trưa yên ắng, sau giờ tan học, lúc quán xá vắng vẻ khách khứa. Không phải vì ghiền hương vị cà-phê mà Tám tận dụng chút thời gian ít ỏi để ba điều, bốn chuyện với chị Thủy, con ông chủ quán và chị Năm sạp báo. Mấy chị em biết nhau từ hồi Tám còn nhỏ xíu, khi hai chị đã bỏ xa cái thời cột tóc đuôi gà. Tuy cách nhau tám, chín tuổi nhưng mấy chị em trở nên thân thiết khi biết nhau có chung một sở thích là đam mê sân khấu và điện ảnh. Người xưa hay nói “miếng trầu là đầu câu chuyện” nhưng bao giờ chị Thủy cũng chế cho Tám một ly “pạc-xĩu” ấm áp, ngon lành hay dành cho thằng em mũm mĩm ly xá-xị ướp đá lạnh tái tê tâm hồn và đặc biệt là chị không bao giờ tính tiền. Chị Thủy, chị Năm có điều kiện đến rạp hát thường xuyên nên tuồng tích nào chị cũng biết, sinh hoạt của các nghệ sĩ hay tài tử nào chị cũng tỏ tường. Những câu chuyện văn nghệ hay hậu trường sân khấu là những đề tài hấp dẫn và dường như không thể chấm dứt.
Những buổi trưa hanh nắng rộn rã tiếng cười theo thời gian qua mau và đột ngột chấm dứt khi Sài-Gòn bị đứt phim. Sạp báo của chị Năm trở nên đìu hiu và chỉ còn trơ lại hai tờ nhựt báo “Sài-Gòn giải phóng” và “Tin sáng”. Tám không còn nhiều sách báo để đọc như ngày trước và ly “pạc-xĩu” hay chai xá-xị cũng trở nên hiếm hoi hơn bao giờ hết. Chị Thủy, chị Năm bị cưỡng ép vào đội “Thanh niên xung phong” đi khai hoang những miền đất mới xa xôi, khỉ ho cò gáy. Bộ đồng phục với màu xanh hắc ám kia đã đẩy mấy chị đi xa cái Sài-Gòn yêu dấu và bỏ lại sau lưng những ngày tháng trẻ trung, vui nhộn, hồn nhiên. Những rạp hát nơi đô thành cũng buồn bã, cúi mặt khi vắng rồi những khán giả quen thuộc, thân thương. Thằng Tám nhớ mấy chị nhiều lắm, nhớ ly pạc-xĩu ấm lòng, nhớ mớ sách báo trải đầy trên sạp và nhất là biết bao câu chuyện văn nghệ, văn gừng cứ ngỡ không bao giờ có dấu chấm hết. Những ngày ấu thơ cứ vội vã đi qua và không trở lại bao giờ.
Gần nửa thế kỷ đã đi qua, quán cà-phê lớn nhỏ vẫn còn nhan nhản trên đường phố Sài-Gòn nhưng cách pha cà-phê cũng khác xưa nhiều lắm. Hầu hết cà-phê được pha chế bằng máy, phong phú hơn cho khách khứa lựa chọn với nhiều tên gọi khác nhau, Cappuccino, Espresso, Latta, v.v.. Mấy hãng cà-phê ở nước ngoài như Lavazza, Starbucks Coffee, v.v.. cũng tìm thấy nơi đây một thị trường béo bở nên xuất vốn làm ăn và tạo dựng nên những chuỗi thương hiệu vang danh, quán xá mỗi ngày thêm phần sầm uất. Ly “xây chừng”, cà-phê “phin”, “pạc-xĩu” như đã lùi vào dĩ vãng mờ phai. Những âm thanh rộn rã của ngày xưa cũng vắng lặng hơn khi hàng xóm hay các “chiến hữu” chung bàn dần dần biến mất và quán cóc lụp xụp, lè tè cũng thưa thớt dần. Khách khứa ưa chuộng bước vào quán xá có trang bị máy lạnh chạy êm ru và chăm chăm ngó vào ‘Laptop’ hay ‘smartphone’ Họ không còn thời gian rỗi rảnh hay “mặn mà” với những câu chuyện sống động, ấm áp tình làng nghĩa xóm hay nhân lúc trà dư, tửu hậu. Thời gian phôi phai, năm tháng cũng trôi nhanh nên “vật đổi, sao dời” là chuyện không thể tránh khỏi. Sài-Gòn đã khác, người muôn năm cũ đã xa và màu tóc xưa cũng theo ngày tháng gội trắng một màu sương tuyết.
TV