Chương 10

Cụ Petrus Trương Vĩnh Ký: Vinh Danh Trong Toàn Cầu Thập Bát Danh Nhân Văn Chương và Khoa Học Năm 1873-1874 – Vì Lý Do Nào?

HML

Bài viết được trích từ Đặc San Petrus Ký 2003 do Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Petrus Ký Bắc California thực hiện.

(nguồn: Quyển Tuyển Tập về “Hiện Tượng Trương Vĩnh Ký” – 2005)

Ky yeu 72 - Petrus Truong Vinh Ky 03

Cụ Petrus* Ký là người thứ 17 trong danh sách 18 danh nhân thế giới và ở các năm 73 và 74 của thế kỷ XIX. Một cuộc khảo cứu các tài liệu được xuất bản cho thấy ông sáng tác được vào khoảng 100 tác phẩm, thông thạo 15 ngôn ngữ Tây phương và Đông phương, trong đó viết và nói điêu luyện được 11 ngôn ngữ. Ông không phải là người đầu tiên có công trong việc chuyển hóa chữ Việt (Translitération hay idéophonétique) từ việc dùng chữ Hán hay chữ Nho theo cách viết tượng hình bằng nét (idéo – calligraphier) viết trong các văn thơ tài liệu sách vở sang ký tự Indo European (trong họ ngôn ngữ này gồm có Sancrit, Slavik, Germanic, Latin..; chữ Anh thuộc nhánh Germanic). Người đầu tiên là Linh mục Alexandre de Rhodes như ai cũng biết và sau đó các nhà cải tiến khác như Hồ Văn Nghi, Cha Bá Đa Lộc, Phan Văn Minh, Giám mục Taberd…

Trước ngày 30 tháng 4, 1975 vị trí của ông ở miền Nam được vững vàng. Tên ông được đặt cho một con đường từ công trường Ngã Bảy theo hướng tây nam đến đường Nguyễn Trãi và một trường nam Trung Học công ở Sài Gòn cạnh đại học Khoa Học trong khuôn viên dành riêng cho mục tiêu giáo dục bao bọc bởi đường Nguyễn Hoàng, đại lộ Cộng Hòa, đường Thành Thái và Trần Bình Trọng. Sau ngày đó Nhà Nước Việt Nam, trong mục tiêu áp đặt, đã loại bỏ và thay vào đó tên của một nhân vật Cộng Sản. Cùng chung một số phận là các đường phố và cơ sở khác của Sài Gòn. Bài viết này đặt một vấn đề căn bản để làm sáng tỏ công luận: bỏ tên của một người hoạt động chính yếu trong lĩnh vực văn hóa lịch sử và ngữ học để thay vào đó một nhân vật Cộng Sản. Hơn thế nữa, ông Petrus Ký là một danh nhân được công nhận ở bán thế kỷ XIX. Như vậy, câu hỏi được đưa ra là “lý do nào ông được danh dự xếp vào trong Thập Bát Hoàn Cầu Danh Nhân với tư cách của một nhà bác học về ngôn ngữ?”. Hiểu rõ được vấn đề này cũng giúp phần soi sáng lịch sử cận đại Việt Nam.

Một khảo sát về sự nghiệp của ông cho thấy rõ các biên thảo về văn chương mà trong cuộc sống của một người mồ côi cha từ nhỏ, rồi đến năm 18 tuổi (1) phải về nhà chịu tang mẹ, lúc đó là năm 1855 hơn 3 năm trươc khi Đề Đốc Rigault de Genouilly đem quân Pháp phối hợp với Y Pha Nho** đến đánh Đà Nẵng.

Tháng 12 năm 1859 đề đốc Page đến Sài Gòn và sau đó tháng 5 năm 1860 phó đề đốc Charner thay Page về Pháp nghỉ ngơi.

Ông bắt đầu làm việc cho người Pháp lúc này để mưu sinh chứ không phải để mưu lợi. Và 3 năm sau ông được triều đình Huế cử theo phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp và Tây Ban Nha xin chuộc lại 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ đã mất vào tay người Pháp năm 1860 và nhượng cho Pháp theo Hòa Ước Nhâm TuấtSau khi rời bến Sài Gòn ngày 4 tháng 7 năm 1863 trên tàu European, phái bộ đến Paris ngày 13-9 và được Hoàng Đế Napoléon III tiếp đón ngày 15-11-1863. Trước khi phái đoàn đến Paris Hoàng Đế Napoléon III có cử đề đốc Bonard mà vào năm 1862 đã đến Sài Gòn thế phó đề đốc Charner, công tác cạnh phái đoàn. Việc xin chuộc lại 3 tỉnh Nam Kỳ có thành công hay không mà trong đó ông Petrus Ký có giữ phần thông dịch cho phái đoàn gồm đến 70 người.

Phan Thanh Giản trong thời gian ở Pháp đợi Hoàng Đế Napoléon III tiếp kiến và sau đó có gặp gỡ một số nhân vật trong đó có đại úy Aubaret người đóng vai trò chính trong hiệp ước 1864 sau đó được gọi nôm na là hiệp ước Aubaret. Vua Tự Đức viết cho Hoàng Đế Napoléon III có lý có tình, hiển nhiên là bằng chữ Hán trong đó có trình bày việc nước Pháp, Y Pha Nho** và Việt Nam chỉ liên quan đến vấn đề đạo Thiên Chúa và việc buôn bán chứ không có “vấn đề yêu sách một mảnh đất cỏn con nào! (2)” (nguyên văn theo sách đã dẫn). Phan Thanh Giản khi lưu lại Paris hiểu là công chúng Pháp vẫn còn e ngại về việc viễn chinh ở một xứ sở xa xôi rất tốn kém và một nền văn minh hoàn toàn khác với Pháp. Ông rất thành công trong vai trò kêu gọi lòng trắc ẩn của vị hoàng đế nước Pháp trước sự mất đất của triều đình Huế. Tuy nhiên trong bài diễn văn đáp từ Napoléon III có câu kết thúc như sau: “Nước Pháp có lòng nhân ái với mọi dân tộc và cũng là nước bảo vệ các dân tộc yếu, phổ biến khắp nơi nền văn minh dịu dàng và hữu ích của nước Pháp nhưng cũng rất nghiêm khắc với những ai cản trở trên bước đường nước Pháp đi”. Ba chữ rất nghiêm khắc (Elle est très austère) được dịch là làm cho sợ (Elle fait trembler). Ai dịch bài khảo cứu được kê ở cuối bài (2) này không nói đến như chúng ta cứ giả sử cho ông Petrus Ký đi, nhưng sự kiện này có làm thay đổi được kết quả cuộc thương lượng do vua Tự Đức, một cố gắng tuyệt vọng của triều đình cuối cùng Việt Nam, trước phong trào bành trướng thuộc địa của các quốc gia Tây Phương vào thế kỷ XIX?

Sau buổi tiếp kiến phái đoàn được đưa sang bộ ngoại giao để hội kiến thêm và sau đó được đi Madrid, Tây Ban Nha và ở đây 1 tháng rồi về Sài Gòn ngày 18/3/1864. Đại úy Aubaret đuợc cử làm lãnh sự ở Bangkok sau đó và được lệnh đến Huế để thương thuyết một hiệp ước mới. Ông là người có cảm tình với nước Việt Nam nhưng trong tay không có một chức vị quan trọng nào. Ông trở lại Sài Gòn với đề nghị một hiệp ước mới cho triều đình Huế và Cambodge, và được bộ trưởng bộ ngoại giao Pháp Drouyn de Lhuys cho trình bày với đề đốc La Grandière, nguyên thống soái Sài Gòn, một bản hiệp ước mới thay cho hiệp ước Nhâm Tuất 1862. Như thế phái bộ Phan Thanh Giản đã thành công, nước Pháp đồng ý, it nhất là trên nguyên tắc, thay đổi Hiệp ước 1862 mà đã được triều đình Huế phê chuẩn (danh từ bấy giờ gọi là hổ giao) vào ngày 14/4/1863.

Ông Aubaret lên tàu Enstre-Casteaux đến sông Hương, và được giao toàn quyền để điều đình một hiệp ước mới. Ngày 18/6/1864 ông gởi một văn thơ cho Bộ Lễ (tức Bộ Ngoại Giao triều đình Huế) cho biết:“… xứ sở này đang lâm vào cảnh đói nghèo cùng cực, nạn đói đang hoành hành nhiều nơi, tất cả là dấu hiệu của sự khốn cùng ..” Nhưng bản Hiệp Ước mà trong tay ông đang có để điều đình ra sao, có các điều khoản nào mà vua Tự Đức rất mong muốn nhượng bộ để lấy lại 3 tỉnh Đông Nam Kỳ. Để được nước Pháp trả lại ba tỉnh này, triều đình Huế phải bồi thường chiến phí mỗi năm 3 triệu quan Pháp (một quan Pháp lúc bấy giờ tương đương 7 lạng bạc ) thêm vào 20 triệu quan của hoà ước Nhâm Tuất, và ngoài các việc tự do thông thương truyền bá đạo Thiên Chúa và thương mại, nước Nam phải cho nước Pháp bảo hộ cả 6 tỉnh Nam Kỳ (3 tỉnh Miền Đông và 3 tỉnh Miền Tây). Việc thêm vào 3 triệu quan bồi thường mỗi năm là một gánh quá nặng nên hai bên đồng ý giảm xuống còn 2 triệu quan. Sau đó, Hiệp ước được ký kết vẫn do khâm sai đại thần Phan Thanh Giản tại Huế với Aubaret ngày 18/7/1864. Than ôi, giấc mộng của vua Tự Đức sắp sửa thành lại bị chết yểu do quyết định của Bộ Trưởng Thuộc Địa và Hải quân Chasseloup Laubat thuyết phục Hoàng Đế Napoléon III nên bành trướng thuộc địa sang Viễn Đông và Hội đồng nội các Pháp ngày 10/11/1864 quyết định không phê chuẩn hiệp ước Aubaret (hiệp ước bị chết yểu).

Sở dĩ phải dông dài giở trang lịch sử mà trong đó ông Petrus Ký bị phê phán gắt gao đến nỗi phá bỏ tất cả công trình đã được công nhận từ ngày ông mất là khoảng trên dưới 70 năm, để cho người đọc thấy rõ vai trò quan chức thông ngôn, những lỗi lầm, nếu có, không ảnh hưởng mảy may nào đến dòng lịch sử.

Đến đây xin trở lại vấn đề chính của bài viết này: ông Petrus Ký làm gì để được danh dự vào danh sách thập bát danh nhân hoàn cầu ở hậu bán thế kỷ XIX?

Lúc theo phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp và Y Pha Nho xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông Petrus Ký có đi nhiều nơi và gặp nhiều người, điều này được nói rõ trong cuộc đời của ông do gia đình phổ biến. Trong thời gian lưu lại Pháp và Tây Ban Nha, ông dùng thì giờ của mình để làm những gì mình muốn và nhất là thu thập sách vở, nhất là về ngôn ngữ.

Người Tây Ban Nha tìm thấy ở thư viện của ông sau này ở Chợ Quán hay đường Trần Bình Trọng một số sách xưa in vào thế kỷ 19 bằng tiếng La tinh, Tây Ban Nha và Pháp … Những sách này đa số là về ngôn ngữ như tự điển, văn phạm không thể nào có được khi ông theo học các trường đạo ở Nam Vang hay Pénang, mà điều chắc chắn là ông đã thu thập được trong thời gian này. Những điều ông quan sát và các tài liệu kiến thức ông mang về đã giúp ông làm được những gì ông mong muốn.

Trong những bức thư vào cuối đời, trước khi mất ông tỏ bày tâm sự: “nợ nần chồng chất, lại mang bịnh. Chỉ vì có ước muốn phổ biến cho người đi sau cái văn hóa và đạo lý của người đi trước …”

Người ta có thể thấy được một nhà văn đi sau ông khoảng 25 năm, xuất bản quyển tiểu thuyết đầu tiên vào năm 1922, và sau đó trong quyển Ăn Theo Thuở Ở Theo Thời, trong lời tựa: “Đời tôi có cái mong muốn hơn hết là viết văn để cho các độc giả thưởng lãm những chuyện trong đời sống hằng ngày.” (3) Ông trở về nước vào giữa năm 1864 (4). Ông tâu vua Tự Đức và các quan những gì ông biết và yêu cầu phải canh tân, nhưng không thành. Năm 1866 ông đảm nhận chức giám đốc trường thông ngôn, rồi hiệu trưởng trường Sư Phạm, năm 1869 chủ bút Gia Định Báo.

Năm 1873 làm giáo sư trường Quốc Gia Hành Chánh (lúc bấy giờ gọi là trường Hậu Bổ) . Vào năm ấy, ông được vinh danh trong sách Hoàn Cầu Thập Bát Danh Nhân, đứng thứ 17 trong số 18 vị, lúc đó ông được 36 tuổi. Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ là các công trình ông làm hay trước tác trong thời gian sau khi tham gia phái bộ Phan Thanh Giản đến lúc đảm nhận chức giáo sư về Việt văn và Hán văn đã có một giá trị được các nhà học giả đương thời với ông công nhận. Và tác phẩm nào, một hay nhiều, được xem hội đủ điều kiện đó. Ngày nay, với kỹ thuật thông tin tân tiến và theo thông lệ các cơ quan phát giải thưởng loan báo tác phẩm hay trong chương trình nghiên cứu nào để trao giải. Với ông Petrus Ký, người viết bài này lúc đang theo học tại trường, vào các thập niên 50 và 60, vẫn nghĩ là nhà bác học về khoa học hay y khoa, giống như một vài nhà bác học Việt Nam như giáo sư Bửu Hội… cho thấy ít có người thông suốt vấn đề này.

Cách đây vài năm, nhân dịp đọc một tài liệu biên khảo và xem lại danh mục các sáng tác của ông trong thời gian vừa kể có các quyển sau:

  1. Abrégé de grammaire annamite, Saigon Impr. Impérial,1867, 131p.
  1. Cours pratique de langue annamite, Saigon Impr.Impérial, 1868, 69p.
  1. Règles pour étudier la langue francaise, Saigon 1872,56p.

Đi xa hơn chúng ta có thể tham khảo tài liệu khảo cứu về ông như J. Thompson (1888) hay Jean Bouchot (1925). Trong cả hai tài liệu này có đề cập đến một công trình của ông và được kể đến trong Petrus Ký Nhà Văn Hóa, Nguyễn Văn Trung, Saigon, 1993. Trong biên khảo L’étude comparée de la langue annamite (et des langues contemporaines (5) … của Petrus Ký có phân tích về ngôn ngữ và tác giả Nguyễn Văn Trung (nguyên khoa trưởng đại học Văn Khoa Saigon) có trích như sau:

  1. “Trong ngôn ngữ Việt Nam, lấy câu “Hôm qua tôi đichợ “, người ta không cần thêm vào câu này chữ đã chỉđịnh thời giờ quá khứ vì chữ hôm qua, người đọc hiểuhành động đi thuộc về quá khứ.
  1. “Vì ngôn ngữ Việt Nam có rất nhiều danh từ kép cónguồn gốc chữ Hán và để làm rõ nghĩa và tránh ngộnhận với danh từ chữ Việt, người ta nên thêm một gạchnối cho các danh từ này. Ví dụ: “hành-chánh” là mộtdanh từ kép có gốc chữ Hán nên thêm vào đó một gạchnối, còn chữ “nợ nần” có nguồn gốc chữ Việt thì khôngcần phải có gạch nối này.
  1. “Trong một vài trường hợp, tiếng Việt để cùng mô tảmột đặc tính thay đổi theo chủ từ bằng cách thay vàomột tiếng khác. Thí dụ: mèo mun, ngựa ô, chó mực đểchỉ các thú vật này có cùng màu đen, chứ không nói mèođen, ngựa đen, chó đen …

Các thí dụ nói trên có giá trị gì trên bình diện ngữ học? Trong một khảo sát về ngôn ngữ có nguồn gốc Indo European, ngoài các ngôn ngữ quen thuộc như tiếng Anh, tiếng Pháp các động từ được chia hay phân tích (conjugate) theo thì, một cổ ngữ như Sanscrit cho thấy các động từ cũng được thay đổi theo thì hay ở thể chủ động hay thụ động bằng cách thêm một hay nhiều ký tự một cách nội tại (intrinsically). Vì nguồn gốc của chữ Việt không phải là Indo European nên không thể áp dụng được mà phải dùng ngoại tại (extrinsically) như thêm vào một túc từ thời gian (time indicative adverb) như sẽ, đang, đã, hoặc một cách gián tiếp bằng một túc từ thời gian như: hôm qua, ngày mai … ông Petrus Ký đã dùng cách thứ hai này.

Trong thí dụ thứ hai, vì chữ Việt gốc chữ Hán và chữ Việt gốc chữ Việt có nhiều chữ đồng âm, nhất là về danh từ nên cách viết của ông Petrus Ký làm cho người viết và sau đó người đọc phân biệt được ý nghĩa của danh từ này. Hãy xem chữ hành chánh nếu tách ra làm hai chữ riêng đứng gần nhau. Trong chữ Việt, hành có nghĩa là một loại hành lá, hành củ,… chánh có nghĩa không phải là gian tà như đường đường chánh chánh, hoặc đứng đầu như ông chánh, ông phó. Như vậy, một người có ý xỏ xiên có thể giải thích hành chánh (không có gạch nối) là lá hành lớn!!…

Trong thí dụ thứ ba cho ta thấy rõ tiếng Việt không được xếp loại vào họ ngôn ngữ Indo European được vì sự thay đổi bổ từ hay túc từ chỉ có tính cách đặc thù chứ không có tính cách phổ cập. Nói một cách khác, chữ Việt không có chữ để nói chung ngôi thứ nhất, thứ hai, thứ ba (số ít hay số nhiều) như họ ngôn ngữ Indo European (như chữ Anh: I, you, he, she, it , we, they; chữ Pháp : Je, tu, il, vous, nous, ils, elles…; chữ Tây Ban Nha : yo, tù, vos, él, ella, nosotro, ellos, ellas).

Các thí dụ điển hình nói trên cho thấy óc phân tích sâu sắc của ông Petrus Ký . Và như thế biên khảo đối chiếu ngữ học Việt đã đặt ông vào vị trí ngang hàng với các nhà ngôn ngữ học của thế giới đồng thời với ông. Và kẻ viết bài này vào hơn một thế kỷ sau cũng không dám có ý kiến gì về việc này. (Độc giả nào muốn tham khảo thêm xin xem các biên khảo về Việt Ngữ và ngôn ngữ học. Chúng tôi xin đề nghị các bạn Hội Petrus Ký ở Đức và Pháp và các quốc gia khác, quốc nội cũng như hải ngoại, tra cứu thêm các tài liệu mà ông Petrus Ký đã viết.

Chúng tôi hết sức hoan nghênh. Xin các bạn tham gia để làm ngọn đuốc soi đường các thế hệ mai sau).

Để kết thúc bài viết có tính cách biên khảo này, chúng ta có thể thấy hai vấn đề chính ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của ông Petrus Ký. Thứ nhất, sự cộng tác với người Pháp có liên quan như thế nào về danh dự của ông là một trong thập bát danh nhân hoàn cầu ở thế kỷ XIX. Người Pháp biện minh cho việc chiếm đóng bành trướng sang Việt Nam là công cuộc khai phóng văn minh (mission civilisatrice). Một số người cho là một cuộc xâm lăng của thực dân. Đoạn đầu của bài này, đưa ra một thí dụ của một viên chức thông ngôn trong phái bộ Nam triều thương thảo với Pháp, để làm sáng tỏ vai trò của ông.

Thứ hai, lý do nào ông được danh dự vào danh sách của các nhà bác học đương thời với ông, lúc 36 tuổi. Đoạn sau của bài này đưa ra vài thí dụ điển hình để chứng tỏ tài phân tích và uyên bác của ông. Việt ngữ như dùng hiện nay là kết quả của một tiến trình bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII, chúng ta đang ở những năm đầu của thế kỷ XXI, một thời gian hơn 350 năm. Hiện nay, tại quốc nội và hải ngoại tiếng Việt đang có những thoái hóa e ngại. Nhiều tác giả lên tiếng cảnh giác về việc này (6). Ngôn ngữ và văn hoá lúc nào cũng phát triển. Sự hữu hiệu của ký tự Indo European trong Việt ngữ, chắc chắn được làm sáng tỏ hơn nếu chúng ta áp dụng một số nguyên tắc mà ông Petrus Ký đưa ra vào hậu bán thế kỷ XIX. Bài này đặt cho nhà đương quyền Việt Nam một vấn đề mà Hội Ái Hữu Petrus Ký ở khắp hải ngoại đang tranh đấu:

Trả lại tên Petrus Trương Vĩnh Ký cho trường Petrus Ký, nơi mà họ đã đục bỏ: Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt – Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm.

 

Chú thích:

* Petrus : tên Latin của Peter, Pierre, hay Pedro.

** I Pha Nho: cổ ngữ để chỉ nước Tây Ban Nha

(1) Có nơi ghi là 21 tuổi.

(2) Theo tư liệu của Ô. Nguyễn Xuân Thọ, “Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa và bảo hộ Pháp ở Việt Nam”. Văn Nghệ, 1993.

(3) Đó là Nhà văn Hồ Biểu Chánh.

(4) Có nơi ghi là tháng 3 năm 1864.

(5) Thêm cho rõ nghĩa.

(6) Văn phạm Việt Nam , Bùi Bảo Trúc, Sài Gòn 1995.