Hai Vị Tướng Lãnh Gốc Việt Của Quân Đội Pháp
Lâm Vĩnh-Thế
Cựu Học Sinh Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký
Trong thế kỳ thứ 20, Quân Đội Pháp đã từng có hai sĩ quan cấp tướng gốc Việt, một vị trong quân chủng Lục Quân, một vị trong quân chủng Không Quân, và cả hai vị đều lên đến cấp Trung Tướng ba sao.[1] Vị Trung Tướng Lục Quân là Ông Nguyễn Văn Xuân, và vị Trung Tướng Không Quân là Ông Nguyễn Văn Hinh. Bài viết ngắn sau đây cố gắng ghi lại sơ lược tiểu sử và binh nghiệp của hai vị tướng lãnh Pháp gốc Việt này.
Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân (1892-1989)
Trung-Tướng Nguyễn Văn Xuân Lúc Còn Mang Cấp Bậc Trung-Tá
Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân Lúc Đã Nghỉ Hưu
Binh Nghiệp
Ông Nguyễn Văn Xuân, sinh ngày 3 tháng 4 năm 1892 tại làng Trường Thọ, tổng An Điền, tỉnh Gia Định, con trai trưởng của ông Nguyễn Văn Của,[2] một doanh nhân có quốc tịch Pháp, đã được gia đình cho sang Pháp học từ nhỏ. Sau khi đậu bằng Tú Tài toàn phần, năm 1912 ông thi đậu và vào học trường Đại Học Bách Khoa (École Polytechnique), một trong các trường đại học lớn của Pháp thời bấy giờ (được gọi chung là Les Grandes Écoles [3]). Sau đó, ông gia nhập quân đội Pháp, phục vụ trong binh chủng Pháo Binh, tham gia trận Thế Chiến I (1914-1918), lần lượt thăng cấp, và trở thành sĩ quan gốc Việt mang cấp bậc cao nhất trước năm 1945: Đại Tá (Colonel, mà người Việt mình thời đó thường gọi là Quan Năm). Giữa năm 1947, ông trở thành sĩ quan gốc Việt đầu tiên mang cấp bậc Thiếu Tướng (Général de brigade, tướng 2 sao). Ngày 4-5-1949, ông được thăng cấp lên Trung Tướng (Général de division, tướng 3 sao).
Tham Chính
Vào đầu Thế Chiến II (1939-1945), khoảng giữa năm 1941, sau khi Pháp thua trận và phải nhường miền Bắc cho quân đội Đức chiếm đóng, chính phủ Laval, đóng tại Vichy ở Miền Nam, chỉ là một chính quyền bù nhìn, Đại Tá Xuân không muốn cộng tác với chính phủ Vichy, và đã quyết định trở về Việt Nam.
Trong giai đoạn này, tình hình chính trị tại Việt Nam hết sức sôi động. Nhật Bản, đồng minh với Đức trong Phe Trục Đức-Ý-Nhật, đã cho quân vào chiếm đóng và kiểm soát toàn bộ Đông Dương. Chính quyền Pháp tại Việt Nam, để có thể tồn tại, đã tuyệt đối chịu phục tùng và làm theo mệnh lệnh của quân Nhật. Đại Tá Xuân không chịu cộng tác với người Nhật và, do đó, đã bị bắt giam.
Cuối tháng 8-1945, sau khi Nhật đầu hàng và Pháp, theo chân quân Anh vào giải giới quân Nhật, đã trở lại chiếm Miền Nam. Tại Hà Nội, Mặt Trận Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã tiến hành chiếm chính quyền, tuyên bố độc lập, và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch, và tiến hành việc điều đình với Pháp. Trong thời gian này, Đại Tá Xuân đã được trả tự do, và đang được người Pháp xem như một yếu nhân quan trọng trong mưu đồ của họ thành lập chính phủ Nam Kỳ Tự Trị.[4]
Tháng 2-1946, Jean Cédile, Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ (Commissaire république de Cochinchine), đứng đầu tổ chức hành chánh của Pháp tại Nam Kỳ, cho thành lập Hội đồng tư vấn Nam Kỳ (Conseil consultatif de Cochinchine), gồm 12 ủy viên, 4 người Pháp và 8 người Việt, tất cả đều có quốc tịch Pháp. Chính hội đồng này, sau đó đổi tên thành Hội Đồng Nam Kỳ (Conseil de Cochinchine) và tăng số ủy viên lên 42 người, đã đề nghị thành lập một chính phủ Nam Kỳ Tự Trị.
Ngày 2-6-1946, chính phủ đầu tiên của Nam Kỳ Tự Trị được chính thức thành lập với Bác Sĩ Nguyễn Văn Thinh (1888-1946) [5] làm Thủ Tướng và Đại Tá Xuân làm Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Quân Đội. Ngày 10-11-1946, Bác Sĩ Thinh, sau khi thấy rõ mình đã bị người Pháp lừa và lợi dụng, đã thắt cổ tự tử. Hội Đồng Nam Kỳ đã bầu Bác Sĩ Lê Văn Hoạch [6]lên thay thế. Đại Tá Xuân tiếp tục giữ chức vụ Phó Thủ Tướng. Chính Phủ Lê Văn Hoạch tồn tại đến tháng 9-1947. Trong thời gian này, Đại Tá Xuân được chính phủ Pháp vinh thăng lên Thiếu Tướng. Sau khi Thủ Tướng Lê Văn Hoạch từ chức ngày 29-9-1947, Thiếu Tướng Xuân trở thành Thủ Tướng.
Thời gian này, Quân Đội Viễn Chinh Pháp đang bị sa lầy trong Chiến Tranh Việt-Pháp (1946-1954), chính phủ Pháp bị bắt buộc phải tìm một giải pháp chính trị, thành lập một chính phủ Việt Nam gồm các thành phần chống Cộng sản để cân bằng áp lực của Việt Minh, và họ nghĩ đến Cưu Hoàng Bảo Đại. Biết rõ lập trường chính trị của Cựu Hoàng là đất Nam Kỳ phải được trả về cho Việt Nam, người Pháp đã phải ủng hộ việc xóa bỏ chính thể Nam Kỳ Tự Trị. Chính phủ Nam Kỳ Tự Trị của Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân được cải danh thành chính phủ Cộng Hòa Nam Phần Việt Nam. Tháng 12-1947, Cao-Ủy Pháp Émile Bollaert đã hội đàm sơ bộ với Cựu Hoàng Bảo Đại trong hai ngày (6 và 7-12-1947) tại Vịnh Hạ Long. Ngày 19-12-1947, Thủ Tướng Xuân sang Hong Kong yết kiến Cưu Hoàng và ngỏ ý muốn tiến tới việc thống nhứt ba kỳ. Ngày 15-5-1948, Cựu Hoàng Bảo Đại “gửi thông điệp cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, tán thành sự thành lập Chánh-Phủ Trung-Ương Lâm Thời V. N. do Thiếu Tướng điều khiển.” [7] Ngày 2-6-1948, chánh phủ Trung Ương Lâm Thời được thành lập với thành phần như sau: [8]
• Chủ-Tịch Hội-Đồng Tổng-Trưởng kiêm Tổng-Trưởng Quốc-Phòng: Th.T. Nguyễn-văn-Xuân
• Quốc-Vụ-Khanh, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng Tổng-Trưởng kiêm Tổng-Trấn Nam-Phần: Trần-văn-Hữu
• Quốc-Vụ-Khanh, kiêm Tổng-Trấn Trung-Phần: Phan-văn-Giáo
• Quốc-Vụ-Khanh, kiêm Tổng-Trấn Bắc-Phần: Nghiêm-xuân-Thiện
• Quốc-Vụ-Khanh: Lê-văn-Hoạch
• Tổng-Trưởng Lễ-Nghi Giáo-Dục: Nguyễn-khoa-Toàn
• — Nội Vụ: Nguyễn-hữu-Trí (sau không nhận)
• — Tư Pháp: Nguyễn-khắc-Vệ
• — Tài-Chánh và Kinh-Tế Q.G.: Nguyễn-trung-Vinh
• — Công -Tác và Kế-Hoạch: Nguyễn-văn-Tỵ
• — Thông-Tin, Báo-Chí và Tuyên-Truyền: Phan-huy-Đán
• — Canh-Nông: Trần-thiện-Vàng
• — Y-Tế: B.S. Đặng-hữu-Chí
• Quốc-Vụ-Khanh tùng Bộ Quốc-Phòng: Trần-quang-Vinh
• Thứ-Trưởng tùng Dinh Chủ-Tịch: Đinh-xuân-Quảng
• Thứ-Trưởng tùng Bộ Giáo-Dục: Hà-xuân-Tế
Dựa trên những thỏa thuận đã đạt được tại Vịnh Hạ Long với Cao Ủy Pháp Bollaert, Cựu Hoàng Bảo Đại đã sang Pháp, tiến hành thảo luận thêm, và sau đó đã ký Hiệp Định Élysée với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol ngày 8-3-1949, theo đó Pháp công nhận Quốc Gia Việt Nam, với Cựu Hoàng Bảo Đại là Quốc Trưởng, là một nước độc lập với lãnh thổ thống nhứt (nghĩa là Nam Kỳ được trả về cho Quốc Gia Việt Nam, không còn là một thuộc địa của Pháp nữa).
Ngày 24-4-1949, Cựu Hoàng trở về nước, và ngày 1-7-1949 thành lập chính phủ mới do chính Cựu Hoàng làm Thủ Tướng với Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân giữ chức vụ Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng. (Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân đã được chính phủ Pháp vinh thăng lên Trung Tướng ngày 4-5-1949 vì “đã có công trạng đặc biệt với Pháp và Việt Nam.”)[9]
Ngày 6-1-1950, Phó Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân từ chức. Tổng Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Phan Long được chỉ định thành lập chính phủ mới.
Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân rời Việt Nam sang Pháp và sống một cuộc đời thầm lặng cho đến khi ông qua đời vào ngày 14-1-1989 tại Thành phố Nice, hưởng thọ 97 tuổi.
Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh (1915-2004)
Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, sinh ngày 20-9-1915 tại Mỹ Tho trong một gia đình trung lưu có quốc tịch Pháp, là con ông Nguyễn Văn Tâm, [10] một công chức cao cấp của chính quyền Pháp, về sau giữ chức vụ Thủ Tướng một thời gian (1952-1953).
Binh Nghiệp
Ông được gia đình gởi sang Pháp học từ nhỏ, và, năm 1936, sau khi xong bậc Trung Học, ông gia nhập Không Quân Pháp, và theo học Khóa 2 Trường Võ Bị Không Quân Salon de Provence, tốt nghiệp năm 1937 với cấp bậc Chuẩn Úy, là phi công lái oanh tạc cơ B-26.
Trong thời gian Thế Chiến II (1939-1945), ông thăng Thiếu Úy, và được cử làm Chỉ Huy Tưởng Liên Phi Đoàn Oanh Tạc tai Blida, Algérie, Bắc Phi. Vào cuối Thế Chiến, ông đã chỉ huy nhiều phi tuần oanh tạc các thành phố kỷ nghệ của Phát Xít Đức.
Sau Thế Chiến II, ông trở về Việt Nam nhưng vẫn tiếp tục phục vụ trong Không Quân của Quân Đội Pháp, và lần lượt thăng cấp và giữ các chức vụ như sau: [11]
• Ngày 31-8-1948: thăng Trung Úy và làm Tùy Viên cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân
• Tháng 6-1949: thăng Đại Úy và làm Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn Vận Tải GT/62
• Năm 1950: thăng Thiếu Tá và đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Thường Trực Bộ Quốc Phòng
• Năm 1951: đầu năm thăng Trung Tá, tháng 3 đảm nhận chức vụ Chánh Võ Phòng của Quốc Trưởng Bảo Đại tại Đà Lạt
Đầu năm 1952, ông tình nguyện chuyển sang phục vụ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, và vẫn được giữ nguyên cấp bậc Trung Tá.
• Ngày 7-3-1952, thăng Thiếu Tướng; ngày 23-5-1952, Quốc Trưởng Bảo Đại ký Dụ số 43 thành lập Bộ Tổng Tham Mưu, và bổ nhiệm Thiếu Tướng Hinh làm Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
• Năm 1953: thăng Trung Tướng (thời gian này, thân phụ của Tướng Hinh, ông Nguyễn Văn Tâm, đang giữ chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam)
Chống Chế Độ Ngô Đình Diệm
Sau Hiệp Định Genève, ký kết giữa Việt Minh và Pháp ngày 20-7-1954, Pháp phải rút khỏi Việt Nam và người Mỹ bắt đầu có ảnh hưởng lớn tại Việt Nam, xuyên qua việc hậu thuẫn chính trị và viện trợ kinh tế – quân sự rất mạnh mẽ cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh vẫn còn giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng nhưng vì là người của Pháp (do Pháp đào tạo, và có quốc tịch Pháp) nên rõ ràng là không có được sự ủng hộ của Mỹ.
Ông Diệm muốn loại Tướng Hinh khỏi chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng, ra lệnh cho Tướng Hinh đi Pháp trong 6 tuần lễ để nghiên cứu, và phải đi ngay trong vòng 24 giờ. Tướng Hinh không thi hành lệnh này.[12] Cuộc tranh chấp giữa Ông Diệm và Tướng Hinh trở nên nghiêm trọng. Tướng Hinh chuẩn bị đảo chánh để lật đổ chính phủ Diệm.
Trước tình hình này, Chính phủ Hoa Kỳ phải ra mặt, trực tiếp can thiệp về cả 2 mặt chính trị và quân sự. Bộ Ngoại Giao gởi công điện cho Đại sứ Donald R. Heath và Trưởng Phái Bộ Viện Trợ Quân Sự là Tướng John W. O’Daniel, chỉ thị rõ ràng là: “nói không úp mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ không dự trù hoặc triển hạn những viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu còn một chút nghi ngờ gì về sự trung thành của vị tổng tham mưu trưởng và các sĩ quan cao cấp.” [13] Trong khi đó, đặc phái viên của Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency = CIA), Tướng Không Quân Edward G. Lansdale [14] đã thương thuyết và mua chuộc được Tướng Cao Đài Trình Minh Thế mang quân về hợp tác với Chính phủ Ngô Đình Diệm. Cũng chính Lansdale đã mua chuộc được các sĩ quan cao cấp của Quân Đội Quốc Gia bỏ rơi Tướng Hinh bằng cách cùng một lúc xin nghỉ phép để đi nghỉ mát. Do đó cuộc đảo chánh mà Tướng Hinh dự tính đã không thực hiện được.
Ngày 13-11-1954, Tướng Hinh rời Việt Nam sang Pháp, chấm dứt vĩnh viễn hoạt động của ông tại Việt Nam
Trở Lại Phục Vụ Không Quân Pháp
Sau khi về Pháp, Tướng Nguyễn Văn Hinh trở lại phục vụ trong Không Quân Pháp ở cấp bậc Trung Tá. Năm 1960, ông được thăng cấp Đại tá và được cử làm Chỉ huy trưởng một căn cứ Không quân ở Algérie. Năm 1962 ông được thăng cấp Thiếu tướng (Général de Brigade) giữ chức vụ Tham mưu phó trong Bộ Tư lệnh Không quân Pháp. Năm 1965, ông được thăng cấp Trung tướng (Génénal de Division) giữ chức vụ Giám đốc Không cụ Quân chủng Không quân, và giữ chức vụ này cho đến khi về hưu vào năm 1970.[15]
Ông mất ngày 26-6-2004 tại Suresnes, ngoại ô Paris, Pháp, hưởng thọ 89 tuổi.
Thay Lời Kết
Hai vị tướng lãnh gốc Việt của Quân Đội Pháp, ông Nguyễn Văn Xuân và ông Nguyễn Văn Hinh, đều lên đến cấp Trung Tướng (Tướng ba sao, Général de Division) và đều có những đóng góp rất quan trọng trong lịch sử cận đại của Miền Nam, một người đã từng là Thủ Tướng Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời Việt Nam và một người đã từng là Tổng Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
GHI CHÚ:
1. Ở cấp tướng lãnh, Quân Đội Pháp có các cấp bậc như sau:
• Thiếu Tướng (hai sao): Général de brigade
• Trung Tướng (ba sao): Général de division
• Đại Tướng (bốn sao): Général d’armée
• Thống Tướng (năm sao): Général de corps d’armée
• Thống Chế (bảy sao): Maréchal (Tướng Alphonse Juin là vị Thống Chế cuối cùng, được phong vào ngày 7-5-1952, sau khi ông mất vào năm 1967 cấp bậc này đã bị hủy bỏ luôn)
2. Ông Nguyễn Văn Của, thường được người đương thời gọi là Ông Huyện Của vì đươc chính quyền Pháp ban cho chức Huyện Danh Dự (Huyện Honoraire), là chủ nhân của nhà in lớn ở Sài Gòn, L’Imprimerie de l’Indochine, chuyên in tất cả các mẫu giấy tờ công văn của chính quyền Pháp. Sau khi người vợ đầu tiên, là mẹ của Thủ Tướng / Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân, mãn phần, ông Huyện Của lập gia đình với người vợ thứ nhì là Bà Cô, chị ruột của Ông Nội tôi (Ông Lâm Văn Ngọ, 1882-1960), chỉ sinh được một người con gái, tên là Cô Louise Nguyễn Thị Nhựt, mất ngày 7-4-1926. Ông Lâm Văn Ngọ, cũng thường được người đương thời gọi là Ông Huyện Ngọ, là Chủ Nhiệm tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn cho đến khi tờ báo đình bản vào năm 1944. Ba tôi, ông Lâm Đình Thăm (1901-1948), bút hiệu Lâm Thiên Tích, cùng làm việc chung với Ông Nội tôi tại Tòa Soạn của báo.Lục Tỉnh Tân Văn. Sau khi Bà Cô tôi mãn phần, Ông Huyện Của cưới người vợ thứ ba, và bà này sinh được nhiều con, mà người con út là Cô Mười Marcelle,về sau là vợ của Thượng Nghị Sĩ La Thành Nghệ.
3. Grandes écoles là gì? Tìm hiểu chi tiết về hệ thống trường lớn tại Pháp, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Grandes Écoles là gì? Tìm hiểu chi tiết về hệ thống trường lớn tại Pháp – Thế Giới Tiếng Pháp (thegioitiengphap.com)
4. Cộng Hòa tự trị Nam kỳ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Cộng hòa tự trị Nam Kỳ – Wikipedia tiếng Việt
5. Nguyễn Văn Thinh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Nguyễn Văn Thinh – Wikipedia tiếng Việt
6. Lê Văn Hoạch, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Lê Văn Hoạch – Wikipedia tiếng Việt
7. Đoàn Thêm. Hai mươi năm qua: việc từng ngày (1945-1964); tựa của Lãng Nhân. Sài Gòn: Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 1968; Los Alamitos, Calif.: Nhà xuất bản Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 43.
8. Đoàn Thêm, sđd, tr. 44-45.
9. Đoàn Thêm, sđd, tr. 54.
10. Nguyễn Văn Tâm (thủ tướng), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Nguyễn Văn Tâm (thủ tướng) – Wikipedia tiếng Việt
11. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. California: Hương Quê, 2011, tr. 145-146.
12. Nhân vật lịch sử Ngô Đình Diệm, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Intrnet sau đây: Ngô Đình Diệm – Người Kể Sử – Lịch sử Việt Nam (nguoikesu.com)
13. Nhân vật lịch sử Ngô Đình Diệm, tài liệu vừa dẫn bên trên.
14. Ed Lansdale’s black warfare in 1950s Vietnam, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: General Edward Lansdale – Search (bing.com)
15. Nguyễn Văn Hinh, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Nguyễn Văn Hinh – Wikipedia tiếng Việt


