Tôi học ở trường Trung Học Pétrus Ký, Sài-gòn, Việt Nam, trong 7 năm, Thầy Trần Huệ dạy tôi trong hai niên học:
– 1956 – 1957: tôi học lớp Đệ Thất A (lớp 6), thầy Trần Huệ dạy môn Lý Hóa.
– 1960 – 1961: tôi học lớp Đệ Tam B5 (lớp 10), thầy Trần Huệ dạy môn Vạn Vật, thực ra nội dung của chương trình là Địa Chất Học.

Với Thầy Trần Huệ không những tôi đã học hỏi từ tính hiền lành và điềm đạm của Thầy khi giảng bài mà còn học hỏi ở ý chí tiến thủ vượt bực trên đường học vấn và nghề nghiệp. Tôi cũng có một kỷ niệm khó quên với Thầy vào hồi tháng 4 năm 1980 tại Trại tị nạn chuyển tiếp Lumbini ở Bangkok, Thailand.

Trong bài này tôi sẽ trình bày:

  1. Tiểu sử Thầy Trần Huệ.
    II. Các tác phẩm hội họa của Thầy Trần Huệ.
    III. Thầy xưa và học trò cũ của Thầy Huệ.
    IV. Những kỷ niệm với Thầy Trần Huệ.
    Kết luận.
  1. Tiểu sử Thầy Trần Huệ

GS TS Trần Huệ sanh vào tháng 10 năm 1932 tại Cần Thơ, Việt Nam trong gia đình có sáu anh chị em. Thầy sanh vào năm Thân nên tính tình hiền lành, mẫu mực, và rất năng động, luôn bằng lòng với hiện tại, nhưng cũng luôn luôn tiến thủ để đạt một địa vị cao hơn trên đường học vấn và công danh. Thân phụ của Thầy là một nhà nho thanh bạch rất quý trọng việc học hành, nên luôn gây tinh thần hiếu học cho các con.

Hình di bút “Theo Hiền Lành” của thân phụ của Thầy Huệ.

Thầy Huệ trân trọng treo bức thủ bút viết bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ tại phòng làm việc, đây là một triết lý đạo đức: Theo Hiền Lành mà Thầy sống và thực hiện trong suốt cuộc đời.

Thầy Trần Huệ theo học tại trường Tiểu học Cần Thơ, rồi trường Trung học Phan Thanh Giản ở Cần Thơ, đậu bằng Diplome vào năm 1949, lúc ấy mới có 17 tuổi, vào thời đó là rất trẻ.

Sau khi Thầy thi đậu Diplome, thân phụ của Thầy quyết định di chuyển lên Sài Gòn, năm 1949, đất Sài Gòn sẽ có nhiều cơ hội hơn cho các con cái học hành. Cuộc di chuyển đường dài trong thời chiến lúc đó rất nhọc nhằn và khó khăn. Đến Sài Gòn, thân phụ của Thầy đã mướn một căn nhà nhỏ ở gần trường Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký. Đời sống ở Sài Gòn vật giá đắc đỏ, Thầy Trần Huệ phải tạm xếp việc học hành để đi tìm việc làm mà giúp gia đình. Thầy quyết định thi vào Trường Sư Phạm Nam Việt vào năm 1950. Trường này là hậu thân của trường École Normale d’Intituteurs / École Normale de Pédagogie , và là tiền thân của trường Sư Phạm Quốc gia, ở đường Đổ Hữu Vị cũ. Chương trình học là một niên khóa (1950-1951, học sinh phải có bằng Diplome), mỗi học sinh được học bổng là 1.414 đồng VN, một số tiền khá lớn vào thời đó.

Thầy học rất giỏi, đậu rất cao, tốt nghiệp Giáo viên Tiểu học năm 1951, và được bổ nhiệm đến dạy tại trường Tiểu học Xóm Cũi, đây là một trường tiểu học lớn ở Quận 8, thuộc vùng Sài Gòn Chợ Lớn. Trong lúc học ở trường Sư Phạm Nam Việt, thầy đã mua các sách cũ để tự học và đã thi đậu bằng Baccalauréat I cũng vào năm 1951, Thầy quả thật thông minh, có chí tiến thủ và chăm học. Trong lúc dạy ở trường Tiểu học Xóm Cũi, Thầy là một giáo viên xuất sắc. Tuy nhiên Thầy không muốn dừng chân tại đây, nên Thầy ra các tiệm sách ở Sài Gòn mua sách giáo khoa chương trình Pháp để tự tiếp tục học. 

Thầy đậu bằng Baccalauréat II (Mathématiques Élémentaires) vào mùa Hè năm 1954. Nha học chánh  Bộ Giáo dục đã thuyên chuyển Thầy đến dạy tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký  từ niên khóa 1954 – 1955, đây là một vinh dự cho Thầy và cũng là phần thưởng xứng đáng cho những ngày đèn sách. 

Thầy Trần Huệ cũng không muốn dừng lại ở ngạch Giáo Sư Trung Học Đệ Nhất Cấp, nên Thầy tiếp tục học nữa. 

Hình Pétrus Ký Staff chụp năm 1959
(Thầy Huệ đứng ở chỗ có vòng tròn):

Năm 1960, Thầy Trần Huệ lập gia đình với cô Châu Thi, và có được 3 người con.  

Năm 1962 Thầy  động viên vào khóa 13 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, rồi phục vụ trong Quân lực VNCH đến năm 1966 thì được giải ngũ. Bạn Nguyễn Văn Danh (Pétrus Ký 1956-1963, đã qua đời ở Hoa Kỳ) đã từng làm việc với Thầy Huệ ở tại Phủ Tổng Thống VNCH, bạn Danh đã kể Thầy Huệ làm việc rất mẫu mực, nghiêm túc với tác phong của nhà giáo, Thầy còn siêng học nên đã ghi danh học ở Đại Học Văn Khoa Sài gòn, đậu bằng Cử Nhân Giáo Khoa Triết Học Tây Phương vào năm 1966. Trở về trường Pétrus Ký, Thầy chuyển qua dạy môn Triết học.

Năm 1967, Thầy được học bổng đi du học ở University of Michigan và Oregon State University. Thầy tốt nghiệp Master of Education về Giáo dục và Tâm lý vào năm 1969.

Trở về nước năm 1969, Thầy được bổ nhiệm qua dạy trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, đây là một danh dự rất lớn cho Thầy. Thầy dạy môn Tâm Lý Thanh NiênLịch sử Giáo dục Tây phương.

Năm 1972, Thầy được học bổng để tiếp tục học ở Pennsylvania State University. Năm 1974, Thầy đậu Tiến sĩ Giáo dục (Chương trình, Phương pháp Giảng huấn và Tâm lý Giáo dục). Trở về Sài Gòn, GS TS Trần Huệ tiếp tục dạy môn Thống Kê Trong Giáo Dục ở trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, các Giáo sư Đại học bị cho ngưng giảng dạy và phải đi “học tập chính trị” tại chỗ. Thầy kể lại, ngoài giờ học thì ra sân chơi ngồi đó đến hết giờ mới được về, lương bổng bị sụt xuống nhiều. Đúng một năm sau thì Thầy được cho dạy lại môn Anh Văn. Với đồng lương mới Thầy không đủ sống, phải đem nhiều món đồ vật trong nhà ra chợ trời bán lần lần. Một hôm Thầy la cà qua tiệm khắc con dấu gỗ, Thầy xin thử tay nghề, nhờ khéo tay nên họ mướn Thầy làm và trả tiền theo các con dấu Thầy khắc được. Do đó Thầy có thêm tiền để chi tiêu nhờ nghề tay trái mới nầy. Một hôm khác, Thầy có dịp đi qua Ngã Bảy ở Sài Gòn, Thầy thấy tiệm này khắc các bông hoa trên gỗ để bán ra nước ngoài. Thầy rất thích thú và thưởng thức các cành hoa đẹp trên gỗ, nên Thầy xin chủ Tiệm cho Thầy học nghề không lãnh lương. Kể từ đó, Thầy Huệ bắt đầu thích vẽ tranh.

Cuối năm 1979, Thầy vượt biên bằng đường biển cùng với 40 người trên một thuyền máy chuyên đi sông và đến trại tị nạn Songkhla ở miền Nam Thái Lan. Trên hành trình đi tìm tự do, chiếc thuyền của Thầy may mắn nhờ Trời nên tới bờ an toàn chỉ trong 3 ngày, sóng yên biển lặng, không gặp hải tặc, mặc dầu lúc ấy hải tặc đang hoành hành. Thầy làm đại diện cho đoàn người khi con thuyền cặp bờ một quận ở Songkhla. Ông Quận Trưởng muốn cho lương thực và dầu để thuyền trưởng tiếp tục ra khơi, nhưng đoàn người nhứt quyết không ra khơi, cuối cùng thì thuyền trưởng khạc ra một bụm máu và nó rằng không còn sức để đi tiếp, và Quận Trưởng không xua đuổi nữa.

Tại trại tị nạn Songkhla, Thầy tình nguyện làm Trưởng ban Giáo Dục trong Ban Đại Diện của trại. Thầy còn hợp tác với Hội Hoàn Cầu Khải Tượng (World Vision), và với Mục sư Jack Mahaffey ở Hội Thánh Tin Lành Baptist ở trại tị nạn để cùng giúp đỡ người tị nạn Việt Nam về vật chất và linh hồn.

Đầu tháng 4 năm 1980, sau khi  được Mỹ chấp thuận, Thầy Trần Huệ được chuyển đến trại chuyển tiếp Lumbini ở Bangkok, Thái Lan để chờ ngày đi định cư. Tôi được Canada chấp thuận, nên cũng được chuyển đến trại chuyển tiếp Lumbini. Thầy trò gặp nhau tại đây, tay bắt mặt mừng, tôi và Thầy đã có một kỷ niệm đặc biệt ở đây, tôi sẽ kể lại ở những kỷ niệm với Thầy Trần Huệ trong phần “Những kỷ niệm với Thầy Trần Huệ”.

Thầy Trần Huệ đến Pennsylvania vào giữa tháng 4 năm 1980, rồi tháng 6 năm 1980 chuyển đến San Jose, miền Bắc California, nơi đây có nắng ấm, tình nồng, người Việt Nam sống quy tụ ở đây rất đông.

Đến San Jose, GS TS Trần Huệ  có việc làm trong hảng đồ gốm Oriental Crafts of California ngay tại Cupertino, nơi đây có Họa sĩ Hà Cẫm Tâm. Một tháng sau, Thầy làm việc tại San Jose State University. Nơi đây, Thầy Trần Huệ có cơ hội làm việc chung với Giáo sư Allen Friebel, Giáo sư Rosemary Messick và Giáo sư Tô Thị Diễn, em của một đồng nghiệp của Thầy ở Đại học Sư phạm Sài Gòn là GS Tô thị Ánh. Công việc của 2 vị GS Messick, GS Diễn và Thầy Huệ là phỏng vấn và tuyển chọn sinh viên Việt Nam cho một chương trình đào tạo giáo chức của Đại học này. Trong thời gian làm việc này, Thầy có cơ hội gặp lại một số cựu sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn, và Thầy dạy môn Tâm Lý Giáo Dục tại đó. Khó có thể cạnh tranh để có được chỗ dạy toàn thời gian, Thầy được Giáo sư Rosemary Messick giới thiệu làm Chuyên Viên toàn thời gian cho Học Khu Evergreen. 

Tháng 10 năm 1983, Cô Châu Thi, vợ thầy và 3 con qua đoàn tụ với Thầy theo chương trình ODP, theo Thầy đó là một phép lạ. 

Năm 2004, Thầy về hưu và hưởng nhàn vào lúc 72 tuổi. Thầy tiếp tục sinh hoạt theo sở thích: vẽ tranh, đọc sách và đi câu.

Một hôm đi câu, Thầy câu được nhiều cá trout ở hồ Hellyer, San Jose.

Trong thời gian ở San Jose, từ tháng 9 năm 1980 đến nay, Thầy Trần Huệ luôn luôn dạy Trường Chúa Nhật ở Hội Thánh Tin Lành  Baptist. Thầy dạy về “Bức thư tình yêu của Trời gởi cho nhân loại”.

GS TS Trần Huệ đã tâm sự với tôi rằng Thầy thích nhất là được dạy tại Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, Việt Nam, và tại Trường Chúa Nhật ở  Hội Thánh Tin Lành và Tin Lành Baptist.

  1. Những tác phẩm hội họa của GS TS Trần Huệ

Nhờ trong lúc làm nghề tay trái là khắc con dấu và học nghề khắc bông trên gổ ở Sài Gòn sau 1975, nên Thầy đã tiếp xúc với hội họa và thích vẽ tranh. Sau khi định cư ở Mỹ vào năm 1980, Thầy Trần Huệ có dịp học vẽ với Họa sĩ Hà Cẩm Tâm, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ Thuật Gia Định trước 1975 rất lâu, Họa sĩ Tâm đã có nhiều buổi triển lảm tranh ở trong và ngoài Việt Nam, và đã dạy Hội họa tại Washington State. Ở San Jose, Thầy đã gặp lại rất nhiều học trò và sinh viên cũ, trong đó có trò Phan Bá Kế (Pétrus Ký 1956-1963, thủ khoa kỳ thi tuyển vào lớp Đệ thất 1956) đã hết lòng hổ trợ tinh thần cho Thầy, Thầy kể lại rằng Thầy rất cám ơn trò Kế khi nhắc lại Thầy vẽ rất đẹp các bức hình khi Thầy dạy Vạn Vật.

Thầy Trần Huệ đã cùng với Họa sĩ Hà Cẩm Tâm triển lảm các bức tranh vỏ tràm, bức tranh mộc bản, bức tranh sơn dầu, bức tranh acrylic nhiều lần tại nhà thờ Tin Lành  ở San Jose để gây quỷ cho nhà thờ.

Thầy đã giảng cho tôi nghe về đặc tính của mỗi loại tranh, tôi xin tóm lược như sau:

1. Tranh vỏ tràm: vỏ của cây tràm có nhiều lớp và nhiều màu, có thể gở ra lớn nhỏ, dày mỏng tùy ý. Do đó mình có thể dùng các lớp đó để dán lên (collage) thành tranh. Các bức tranh vỏ tràm trong các buổi triển lãm đều được mua hết, Thầy không có chụp ảnh để lưu lại. Đường Burdette gần nhà Thầy Huệ ở San Jose  có nhiều cây eucalyptus có vỏ có nhiều lớp dày và xốp có thể gở ra và tiếp tục gở để có những lớp mỏng nhiều màu khác nhau như vỏ tràm, rồi Thầy có thể dùng dán lên canvas thành tranh theo ý muốn, tranh phong cảnh núi đồi, biển, chân dung, thú vật …

2. Tranh mộc bản: tranh khắc trên gỗ rồi in ra thành nhiều bản.

3. Tranh sơn dầu:  (Thầy Huệ không có dùng sơn dầu.) Chất pha “sơn dầu” có gốc dầu (Oil base), hay màu pha với dầu để vẽ, lâu khô, khô thì dày.

4. Tranh acrylic: chất “sơn Acrylic” (đọc là: ác-crai-lic) là bột màu thả vào acrylic polymer emulsion, pha thêm nước được.

Sơn dầu không hòa tan trong nước nên không được trộn lẫn hai thứ màu (sơn dầu và sơn acrylic) với nhau. Sơn acrylic là thứ sơn mau khô hơn sơn dầu, khi khô xong thì màu đậm hơn một chút, pha lỏng được với nước, dễ rửa cọ, nhưng khi đã khô thì không tan trong nước. Trong trường hợp muốn vẽ một bức tranh dùng cả hai loại màu này thì phải vẽ acrylic trước rồi vẽ chồng sơn dầu lên sau (theo luật “Fat On Lean“). Không được phép vẽ ngược trình tự này. Nếu không sơn có thể bị nứt.

Hệ quả việc sơn acrylic khô nhanh là khiến Họa sĩ chịu áp lực vì phải vẽ nhanh. Phải ngâm cọ trong nước, rửa cọ liên tục, nếu không sơn khô cọ bị hư (cọ tốt giá không rẻ). Cũng vì acrylic mau khô, họa sĩ không phải đợi để vẽ chi tiết chồng lên trên lớp sơn trước, một tiện lợi cho việc vẽ chi tiết.

Hai bức tranh Thầy Trần Huệ thích nhất và còn lưu lại

Hai bức tranh Thầy Trần Huệ vừa vẽ xong vào tháng chín 2016

Thầy tâm sự gần đây Thầy không còn triển lãm nữa và không bán tranh.  Hôm ăn cơm tối ở nhà mới của Phan Bửu Giá thầy có kêu Giá lại nhà Thầy để lấy một bức tranh về treo trong phòng khách của Giá.

III. Thầy xưa, học trò và sinh viên của Thầy Trần Huệ 

  1. Các Vị Thầy của Thầy Trần Huệ:

             Tôi xin trích dẩn nguyên văn đoạn viết của Thầy Trần Huệ trong email Thầy gởi cho tôi về các vị Thầy của Thầy:

1. Tiểu Học: 

• Thầy Dương Du Cam béo và có râu mép, dạy thầy Huệ mấy năm ở Tiểu học, luôn tươi cười, gọi các học sinh thầy thương là “Học trò môi son của tôi,” luôn luôn dùng một cái mõ đánh nhịp bước cho học trò tập đi.

• Thầy Trần Văn Sớm người hơi gầy, nước da trắng trẻo, dạy rất  cần mẫn, không bao giờ vắng mặt hoặc đến trễ.

2. Trung Học:

• Giáo sư Trương Vĩnh Khánh (con cháu của Cụ Pétrus Trương Vĩnh Ký), người phốp pháp, nói tiếng Pháp rất giỏi, luôn luôn mặc “complet” trắng ủi thẳng băng và hút xi-gà. Người lao công hiền lành hay chực sẵn ngoài sân gần cửa chờ khi Giáo sư Khánh kéo xong hơi cuối cùng quẳng ra ngoài cửa phòng thì nhanh tay lượm. Thầy Khánh hiền lành, không phạt và là Giáo sư Pháp văn đầu tiên của thầy Huệ  ở trường Phan Thanh Giản. Hai kỷ niệm vui với Thầy Khánh là các bạn của thầy Huệ lúc đó có câu đố vui với nhau là: “Cái gì càng kéo càng ngắn?” Đáp: “Điếu thuốc!”. Kỷ niệm thứ hai là thầy Huệ  nhỏ con ngồi bàn đầu, Thầy Khánh khôi hài đặt cho Thầy cái tên “Nhái Bầu,” và từ đó các bạn học của Thầy  hay đùa gọi Thầy “Nhái Bầu,” nhứt là cô bạn lý lắc Trần Anh Võ. Thời gian sau, Thầy Khánh làm Tổng Trưởng (thời đó chưa có chức vụ Bộ Trưởng) Bộ Giáo Dục Chánh Phủ Lâm Thời, Thủ Tướng là Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh.

• Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, người trắng trẻo rất gầy, dạy Pháp văn ở Trường Trung Học Phan Thanh Giản, Cần Thơ, muốn cho học sinh nói đâu ra đó. Một hôm thầy Huệ dùng giàn thun bắn chim cu trên cây dái ngựa (loại cây nầy cao và có trái hình dái ngựa), con chim rớt thẳng xuống suýt trúng đầu thầy Kiết đang đi dạy về ngang qua đó, thầy không cười, hỏi “Làm cái gì kỳ vậy?” Đành phải đáp nhỏ nhẹ, “Dạ thưa, em bắn chim,” áp dụng nói đâu ra đó. Hôm khác, cũng tại nơi đó (trước nhà thầy Huệ), thầy Huệ tập đi xe đạp gặp thầy Kiết sợ quá, lái không vững, suýt xắng vào thầy Kiết, thầy Kiết nhảy nai, bật nói, “Làm cái gì kỳ vậy?” “Dạ thưa thầy, em tập đi xe đạp.”

• Giáo sư Trịnh Huy Tiến, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà nội, dạy môn Việt văn ở Trường Trung Học Phan Thanh Giản. Thầy Tiến người gầy thấp, nho nhả, có vợ cao, rất đẹp và hay đến nhà thầy Huệ đặt may hoặc sửa áo. Một Tết nọ, ba má thầy Huệ biểu thầy cùng người anh đến thăm và chúc Tết thầy Tiến. Đến nơi thì thấy thầy Tiến đang đếm xem trong truyện Kiều có mấy chữ nôm–thầy đang dự thi giải văn chương toàn quốc, sau đó được giải nhứt. Thầy bảo hai đứa nầy kéo ghế ngồi cùng bàn và bảo: “Cắn hạt dưa.” Hai đứa cắn hạt dưa. Đôi bên im lặng. Mười phút sau, hai đứa chào thầy Tiến ra về.

• Thầy Huệ tự học thi Baccalauréat I và II nên không có thầy ở cấp Trung học đệ nhị cấp, chỉ có đến dự thi ở Lycée Chasseloup Laubat, Sài Gòn.

3. Đại Học:

•Môn hội họa: Họa sĩ Hà Cẩm Tâm. 

• Học ở Đại Học Mỹ, thầy may mắn có các Giáo sư tốt như Dr.  Paul Bixby, một Quaker, Dr.  John Withall, Dr. Jean Dupuis, Dr.  Di Vesta, Dr. Allessandro. Các Giáo sư đó có ảnh hưởng rất nhiều trên Thầy về nhiều mặt, nhứt là Dr. Bixby.

Ở Đại Học Văn Khoa, Sài Gòn, thầy được học với các giáo sư khả kính, Giáo sư Dufey (Pháp văn), Linh Mục Bửu Dưỡng (Triết học Tây phương), Linh mục Lê Tôn Nghiêm (Triết học Tây phương),Giáo sư Nguyễn Văn Kiết (Triết học Tây phương),  Giáo sư Lý Chánh Trung (Tâm Lý học), Giáo sư Nguyễn Văn Trung (Tâm Lý học), Giáo Sư Lê Thành Trị (Tâm lý học, người đỡ đầu thầy Huệ làm luận án Cao học “Ý Nghĩa của Các Giấc Mộng,” gian dở vì thầy Huệ nửa chừng phải đi du học. 

B. Học trò cũ của Thầy Trần Huệ:

Trong 53 năm dạy học Thầy Trần Huệ đã có rất nhiều học trò và sinh viên. Trong số đó có nhiều học sinh thương thầy; thầy nói, “có lẽ một phần là vì Thầy thông cảm các em giả gạo ngày đêm nên thầy không bao giờ phạt cấm túc (phải vào học thêm tại trường ngày Chúa Nhật dưới sự trông nom của Giám thị) cho bất cứ trò nào”. GS Lâm Vĩnh Thế với bút hiệu Vĩnh Nhơn đã viết trong bài “Kỷ niệm vui buồn Pétrus Ký. Hồi tưởng về trường xưa, Thầy Cô và Bạn cũ”, viết xong ngày 08 tháng 07 năm 1999. Bài này đã đăng trong Đặc San Tạ ơn Thầy nhớ ơn Cô, trang 58 :

“…Bọn tôi có nhiều kỷ niệm vui với Thầy Huệ. Năm Đệ Tam, chương trình Vạn Vật là học về Địa Chất. Mỗi đầu giờ học đều có chú lao công của Phòng thí nghiệm mang lên một khay đựng đầy các mẫu đất đá mà Thầy Huệ đã chọn sẵn. Thầy cho phép bọn tôi chuyền nhau xem các mẫu đất đá đó. Lần nào cũng như lần nấy, đến cuối giờ Thầy kiểm lại thì cũng điều thiếu một vài mẫu vì bọn tôi dấu đi để phá Thầy. Thầy chỉ cười, kêu đích danh một vài tên mà Thầy biết rõ tánh liếng khỉ, và các tên đó phải móc túi ra, đem mẫu đất đá lên trả lại Thầy, và cả lớp lại được một màn cười thoải mái, thích thú. Thầy Huệ cũng là một mẫu người hiếu học, và rất có chí…”

Về việc vẽ tranh, Thầy tâm sự với tôi: “Việc Thầy vẽ là cũng nhờ có một số học sinh Pétrus Ký, trong đó có em Phan Bá Kế mà Thầy may mắn gặp lại, đã cho rằng Thầy vẽ đẹp khi vẽ các hình dạy môn Vạn Vật học. Cám ơn sự khuyến khích đó của các em”.  Nhiều lần thầy  dự họp mặt ăn uống, trò chuyện với các cựu học sinh Trường Pétrus Trương Vĩnh Ký tại nhà các bạn như bữa ăn tối ở nhà của Phan Bửu Giá (có vợ chồng Phan Bá Kế, vợ chồng Francoise Lê Hữu Phước, vợ chồng Nguyễn Vĩnh Thượng), các bạn  ở San Jose thường đến thăm Thầy Huệ;  hoặc tại các nhà hàng Bún Bò Huế, Gà An-Nam, Nha Trang, Cà Mau,v.v. nhứt là khi có em nào từ Canada, Pháp…sang chơi. Cựu học sinh  Pétrus Ký Bác sĩ Tô Ngọc Ẩn chăm sóc gia đình thầy Huệ khác nào như chăm sóc người nhà. Có lần Thầy Huệ đã email đến tôi và nhắc bạn Nguyễn Khắc Phụng (Pétrus Ký 1956 – 1963) và hỏi thăm: “Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Khắc Phụng đã du học và đang sống ở Canada, sức khỏe tốt chứ?” 

Thầy Huệ kể: Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn ở Pleasanton cùng các bạn cùng các bạn đồng môn Pétrus Ký: các em Võ Duy Danh, Lại Đức Ngự, Huỳnh Hữu Chí–đến thăm thầy tại nhà, thật là vui và bồi bổ cho thầy và cũng là đặc biệt và cảm độngbởi vì các em nầy mến thầy dù không phải là cựu học sinh đã học trực tiếp với Thầy. Đặc biệt, em Nguyễn Ngọc Sơn có gởi đến Thầy thiệp chúc mừng sinh nhật một hội viên Hội Tinh Cầu Pétrus Ký, thỉnh thoảng có mời Thầy dự những buổi họp mặt ăn cơm cùng với các cựu học sinh Pétrus Ký và hay gọi điện thoại thăm thầy cùng người yêu của Thầy.  Hội Tinh Cầu Pétrus Ký gởi thiệp đến Thầy Huệ:     

Các học trò cũ của Thầy Huệ đã đến thăm viếng, điện thoại thăm hỏi, gởi thiệp mừng sinh nhật đều làm thầy cảm động, giúp Thầy sống vui vẻ, luôn cười vui tươi cùng với học trò cũng vui tươi nên tuổi thọ của Thầy sẽ tăng thêm: “một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”.  

Thầy viết: “cũng nhờ các em cựu học sinh Pétrus Ký mà Thầy trông thấy lại được các khung cảnh ngày xưa của Trường Pétrus Ký, thấy lại được từng phòng ốc, từng gốc cây, bụi cỏ … và nhiều con người đồng nghiệp cũng như học sinh, nhiều sự việc lịch sử chung ra riêng ở đó. Các em thật là những cái gương, cái lăng kính giúp cho Thầy nhìn qua đó mà được sống lại những kỷ niệm êm đềm, quí báu.”

IV. Những kỷ niệm với Thầy Trần Huệ

Các bạn đồng khoá với tôi và tôi đều quý mến Thầy Huệ. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng trửng giỡn và làm ồn trong lớp, nhưng đến giờ Thầy Huệ thường thì giữ im lặng nghe giảng bài. Thầy có nét mặt hiền lành, nghiêm nghị, vui tính và cởi mở thường nói chuyện vui với học trò.

Hồi tôi học lớp Đệ Thất (lớp 6, 1956 -1957), nhà Thầy ở trên đường Phan Đình Phùng cũ, ở giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng cũ, nhà Ba Má tôi cũng ở trong xóm Vườn Chuối gần nhà Thầy Huệ, nên tôi có dịp ghé thăm Thầy vài lần. Lúc ấy tôi thấy Thầy đi chiếc xe đạp bằng nhôm đẹp lắm, chắc rất đắc tiền, lúc ấy tôi phải đi bộ để đi học, tôi ước mong Ba Má tôi sẽ mua cho tôi một chiếc xe đạp để đi học và đạp lên Lái Thiêu ăn trái cây.

Hồi đầu tháng 4 năm 1980, tôi gặp lại Thầy Huệ tại trại Tị nạn chuyển tiếp Lumbini ở Bangkok, Thái Lan. Thầy chờ đợi để đi định cư ở Mỹ, tôi thì chờ đợi để đi Canada. Hai thầy trò rất vui mừng. Chúng tôi nghe nói ở bên ngoài trại có quán hủ tiếu rất ngon của người Thái gốc Tiều, nhiều người tị nạn ở trại này đã ra đó ăn, lại nghe nói ở gần đó có quán cà phê có nhiều cô dọn bàn trẻ đẹp nữa. Hai thầy trò rủ nhau đi ăn hủ tiếu và uống cà phê. Chẳng may, khi Thầy Huệ và tôi vừa ra khỏi trại thì bị lính Thái bắt. Họ bắt nhốt Thầy Huệ và tôi ở trong một cái phòng vuông vứt khoảng 2 mét vuông, trên lầu trống trơn, có một cái lỗ nhỏ để đi tiểu tiện. 

Nhiều học trò, học Anh văn với Thầy Huệ ở trại Songkhla đã đem thức ăn đến cho Thầy, Thầy Huệ chia lại cho tôi một phần. Sau khi ăn trưa, vào khoảng 2 giờ chiều thì Ông Đại Tá Trưởng trại ra lịnh cho Thầy Huệ và tôi lên trình diện ông ta ở Văn phòng Trưởng trại. Ông Đại Tá Thái Lan này rất lịch sự và ôn tồn dặn chúng tôi đừng đi ra khỏi trại Lumbini nếu không có giấy phép, rồi Đại Tá cho chúng tôi tự do. Sau này tôi nghe nói, có một thiếu nữ trẻ đẹp đã là học trò Thầy Huệ và đang ở trại chuyển tiếp này đã tự động gặp Ông Đại Tá Trưởng trại. Với sự ngoại giao khéo léo, cô đã xin tha cho Thầy Huệ và tôi. Nghe nói người đẹp này có nhiều cảm tình với Thầy Huệ. Lần này tôi hưởng được ân đức của Thầy Huệ. Đã trên 36 năm rồi tôi vẫn nhớ tới kỷ niệm này, và nhớ thương Thầy tôi, Trần Huệ. Có lần Thầy Huệ nói với tôi:  “có em ở kế bên Thầy làm Thầy không có chi lo lắng trong mấy tiếng đồng hồ hai thầy trò gặp chuyện gian lao bất ngờ này.”

Chúng tôi đến San Jose,  Bắc California, vào ngày thứ Sáu 10 June 2016 với mục đích thăm Thầy Trần Huệ, các bạn đồng nghiệp cũ và các học trò cũ của chúng tôi. Hôm Chúa Nhật 12 June 2016, vợ chồng bạn Phan Bửu Giá (Pétrus Ký 1956 – 1963) mời Thầy Huệ , vợ chồng các bạn đồng môn khác như Phan Bá Kế, Francoise Lê Hữu Phước và chúng tôi ăn cơm chiều ở nhà mới của Giá. Nhà mới của Giá mới cắt chỉ lấy từ Builder, kiến trúc mới, đẹp và khang trang.  Bạn Kế đã đến rước Thầy Huệ và vợ chồng tôi đi đến nhà Giá vào chiều tối Chúa Nhật 12 tháng 6, 2016. 

Chiều hôm sau, thứ Hai 13 tháng 6, 2016, vợ chồng Francoise Lê Hữu Phước và cháu trai đến rước vợ chồng tôi đến nhà Phước chơi. Nhà Phước là một dinh thự ở trên đồi, phong cảnh xung quanh rất nên thơ, ở giữa nhà là bàn thờ Phật và bàn thờ Ông Bà rất là trang nghiêm.

Chiều tối hôm đó vợ chồng Phước và cháu trai mời tôi đi ăn cơm tối, rồi Phước chở chúng tôi đi xuống downtown San Jose để ngắm đường phố.

Buổi hội ngộ tuy ngắn ngủi nhưng gợi nhớ nhiều kỷ niệm xa xưa.

Bữa ăn tối ở nhà Phan Bửu Giá, San Jose, 12 tháng 6, 2016           

Lúc chia tay từ nhà Giá, San Jose, 12 tháng 6, 2016

Kết Luận 

Thầy Trần Huệ là một nhà giáo có ý chí tiến thủ đáng phục và là một tấm gương cho con cháu chúng ta noi theo: bước đầu cuộc đời là một Giáo viên tiểu học, Thầy kiên nhẫn, nỗ lực học tập để tiến thân trong nghề giáo dục, thầy vươn lên làm Giáo sư Trung học rồi cuối cùng là Giáo sư Tiến sĩ ở bậc Đại học ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Chúng ta nên sống theo triết lý đạo đức của Thầy: “Theo hiền lành”.

Thầy Huệ có một sở thích là vẽ tranh, Thầy đã học hỏi về hội họa từ các nghệ nhân đi trước, ở những sách vở, tác phẩm và phát triển thêm với những bức tranh vẽ như là một họa sĩ chuyên nghiệp, tôi rất thích các bức tranh của Thầy. 

Tôi kính chúc Thầy Trần Huệ được nhiều sức khỏe.

Toronto, 15 tháng 9, 2016

Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu học sinh Pétrus Ký (1956-1963)