Gánh hát Kim Chung – Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô
Vưu Văn Tâm
Ông bầu Long tên thật là Trần Viết Long (1922-2003), sinh quán ở Hà-Nội trong một gia đình giàu có. Ông đi du học ở Pháp, nghiên cứu về điện ảnh nhưng khi về nước vì phải lòng cô đào Kim Chung, được mệnh danh là “₫ệ nhất danh ca Bắc Hà”, nên đứng ra thành lập gánh hát “Kim Chung – Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt” (Hà-Nội) và “Kim Chung – Tiếng Chuông Vàng Hải Cảng” (Hải-Phòng) với sự tiếp tay của người bạn thân là ông Phạm Thọ Minh.


Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17, gia đình ông bầu Long cũng như hằng triệu người dân xứ Bắc di cư vào Nam để tìm một cuộc sống mới. Nơi miền nắng ấm, gánh hát Kim Chung mướn dài hạn rạp Trung Ương Hí Viện tức rạp Aristo trên đường Lê Lai (hiện giờ là khách sạn New World) làm nơi để tập dợt, ổn định nơi ăn chốn ở cho các nghệ sĩ và nhất là có sân khấu để trình diễn hằng đêm.


Gánh hát Kim Chung khai trương vở tuồng “Trăng giãi đêm sương” quy tụ các nghệ sĩ đã theo ông bầu Long di cư vào Nam như Kim Chung, Bích Hợp, Huỳnh Thái, Ngọc Toàn, hề Phúc Lai, hề Tư Vững, v.v.. với sự ủng hộ của đồng đảo báo giới và khán giả đa số là đồng hương mới di cư vào Nam. Nội dụng tuồng “Trăng giãi đêm sương” dựa theo tích truyện “Hồng Lâu Mộng” với y trang và cảnh trí giống như những vở tuồng màu sắc bên Tàu. Về phương diện ca diễn, các nghệ sĩ ngâm nga như lẫy Kiều, có chỗ nói thơ theo điệu sa mạc, bồng mạc và ca vọng cổ bằng giọng Bắc như những ngày còn sinh hoạt văn nghệ ở Hà-Nội.
Khán giả ở Sài-Gòn đã quen với cách ca chân phương của các nghệ sĩ miền Nam cũng như làn điệu muồi rệu của câu vọng cổ nên khó thể chấp nhận cách ca cải lương của người miền Bắc. Để có thể cạnh tranh với các gánh hát đương thời, ban giám đốc Kim Chung quyết định cải tiến bằng cách mời mọc các nghệ sĩ hữu danh của miền Nam về cộng tác như Tấn Tài, Hùng Cường, Thanh Hải, Út Trà Ôn, Ba Vân, Ngọc Bích, Kim Tuyến, Út Bạch Lan, v.v.. và đổi tên bảng hiệu thành “Kim Chung – Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô”.


Tuồng tích ở gánh Kim Chung thường mang chủ đề kiếm hiệp hay hương xa để các nghệ sĩ có thể phô trương trang phục được may sắm theo kiểu Trung-Hoa hay Nhựt-Bổn. Thỉnh thoảng, tuồng tâm lý xã hội cũng được dàn dựng và trình diễn nhưng rất hiếm hoi. Ngoài đội ngũ soạn giả đến từ đất Bắc như Ngọc Văn, Vạn Lý, Ngọc Huyền Quân (tức bầu Long), nhiều soạn giả có tiếng của Sài-Gòn như Ngọc Huyền Lan (ký giả Nguyễn Ang Ca), Trần Hà, Mộc Linh, Yên Lang, v.v.. cũng được triệu về với những đãi ngộ xứng đáng. Những vở tuồng trên sân khấu Kim Chung ngày đó vẫn còn được yêu chuộng cho đến bây giờ có thể kể như “Kiếp nào có yêu nhau”, “Xin một lần yêu nhau”, “Áo Vũ Cơ Hàn”, “Máu nhuộm sân chùa”, “Đêm lạnh chùa hoang”, “Tây Thi”, “Người tình trên chiến trận”, v.v..


Ông bầu Long và ban giám đốc Kim Chung cũng chọn rạp hát Olympic trên đường Hồng Thập Tự với địa điểm thuận tiện hơn làm nơi “an cư, lạc nghiệp” để thay thế cho rạp Aristo. Bên cạnh đó, ông cũng nhắm vào các mầm non vừa được tuyển chọn trong các cuộc thi ca vọng cổ do các báo chí kịch trường tổ chức ở rạp Quốc Thanh hay Nguyễn Văn Hảo như Minh Cảnh, Minh Vưng (Minh Vương) và “lancé” những gương mặt mới nhưng nhiều triễn vọng như Minh Phụng, Phương Bình, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Thanh Kim Huệ, Bích Hạnh, v.v.. Với phương thức quản lý dày dạn kinh nghiệm và lối quảng cáo rầm rộ, các nghệ sĩ trẻ được phát triển tài nghệ và tên tuổi ông bầu Trần Viết Long cũng như tăm tiếng gánh hát Kim Chung ngày thêm vang xa. Ở thời cực thịnh, gánh hát Kim Chung phát triển đến 6 đoàn và luân phiên trình diễn trên khắp bốn vùng chiến thuật.
Nếu soạn giả kiêm đạo diễn Nguyễn Thành Châu và đoàn hát Việt Kịch Năm Châu chủ trương quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” với tiêu chí sân khấu phải “thật và đẹp” thì gánh hát Kim Chung của ông Trần Viết Long nhắm vào “nghệ thuật vị nhân sinh”. Có nghĩa là khán giả đến rạp hát để giải trí sau những giờ làm việc cực nhọc chứ không phải để học hỏi hay được dạy dỗ một điều gì đó. Ông không màng khi báo chí lên tiếng “ông là một nhà kinh doanh nghệ thuật” hay “ông bầu mua đào, chuộc kép” miễn sao gánh hát của ông được tồn tại và ngày thêm phát triển.
Ảnh hưởng từ cuộc chiến mỗi ngày một dâng cao và nhất là sau cái tết Mậu Thân, nhiều gánh hát đại ban phải giảm bớt hoạt động hoặc bắt buộc phải rã gánh. Không nằm ngoài mẫu số chung đó, gánh hát của ông bầu Long chỉ tồn tại được hai đoàn Kim Chung 2 và 5 luân phiên trình diễn ở Sài-Gòn cũng như đi lưu diễn dài hạn ở các tỉnh miền Tây, miền Trung.



Tháng tư năm 1975, miền Nam thất thủ, ông bà bầu Kim Chung bỏ lại tất cả sản nghiệp và kịp thời di tản trước ngày Sài-Gòn hấp hối. Năm 1981, ông bà trở về Việt-Nam nhưng không rõ có ý định gầy dựng lại gánh hát năm xưa hay không. Với tuổi già sức yếu, ông sống kín tiếng và qua đời năm 2003. Nghệ sĩ Kim Chung cũng về với Tổ nghiệp cải lương vào năm 2008.
Với “công ty Kim Chung”, ông Trần Viết Long là bậc thầy trong giới kinh doanh vì lập được kỷ lục gồm 6 đoàn hát mà trong lịch sử cải lương miền Nam chưa có ông bà bầu nào có thể vói tới được. Những nghệ sĩ trẻ được đào luyện từ đại ban Kim Chung cho đến ngày nay vẫn là những tên tuổi lẫy lừng và được công chúng yêu thương, ủng hộ. Để kết thúc bài viết, xin mượn lời của soạn giả Nguyễn Phương trân trọng nhắc về đại ban Kim Chung như sau: “Sự góp mặt của một gánh hát cải lương đến từ xứ Bắc đã ít nhiều thay đổi phương thức kinh doanh của các đoàn hát cải lương ở miền Nam cũng như kích thích cho sự cạnh tranh, tồn tại và phát triển của ngành nghệ thuật sân khấu ở miền Nam Việt-Nam”.
TV, 04.03.2025
