CUỘC HÔN NHÂN ĐẦU TIÊN CỦA TÔI
Trần Văn Nam
(Trích: Trần Văn Nam 80 năm cuộc đời)
Ở tuổi sinh viên, tôi rất nhỏ con, ốm yếu.
Bởi vậy, tôi có hai mặc cảm: nhỏ con và con nhà nghèo. Tôi ăn nói cũng không được hay và không biết “cua đào”. “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…”, anh chàng trai lúc nào cũng vậy, cũng mộng mơ người đẹp “nữ hoàng của lòng anh” nhưng rồi gặp duyên số mới gặp được người mình yêu mến và cưới làm vợ.
Trong đời tôi, vào tuổi đôi tám, tôi có gặp và để ý một người là PTXN ở cùng khu Tân Định với tôi, học trường Thiên Phước với chị tôi. Mỗi ngày đi xem lễ ở nhà thờ Tân Định, tôi đều gặp N. N. có mái tóc dài như cô đào Thanh Nga, có khi còn dài hơn nữa, đôi mắt rất xinh, bộ ngực đẹp, nhưng cao hơn tôi một cái đầu. Tôi thường đến nhà N. chơi nhưng tôi chỉ lo học thôi, chưa dám có ý định gì.
Sau nầy, N. học y tá ở trường Cán Sự Xã Hội đường Tú Xương do mấy bà phước dòng Vincent de Paul giảng dạy. Sau đó, làm việc tại Bệnh viện Grall, rồi đi làm việc ở Thụy Sĩ và kết hôn với một giáo sư đại học người Pháp. N. và ông xã định cư ở Pháp, về hưu ở Nice. Chồng N. vừa mới qua đời.
Người thứ hai tôi gặp là NTT Cúc, cựu học sinh Couvent des Oiseaux. Tôi gặp Cúc ở tiệc tất niên của trường Dược Khoa năm 1963. Đại học Dược khoa lúc đó ở góc đường Hiền Vương và Công Lý, gần nhà tôi. Cúc học Dược Khoa từ năm 1962-1967, Cúc có gia nhập Thanh Sinh Công và thường đi phát thuốc và ủy lạo bệnh nhân với tôi. Cúc và tôi rất mến nhau, còn tôi lúc đó chưa ra trường, nên chưa mở lòng với Cúc. Sau nầy Cúc cặp với Louis Hồ Tấn Tài ở trong Phong Trào C.M.U trường Taberd. Hai người sau đó sang Pháp đi du học và kết hôn. Cúc và Tài nay đều đã qua đời.
Lúc học năm thứ 5, khi đi tập sự ở Bảo Sanh Viện Từ Dũ, tôi có quen một nữ hộ sinh tên là PTS. Sau đó S. ra trường và làm việc tại Tây Ninh. Lúc đó, tôi chưa học xong và chưa có ý định gì. Sau nầy S. gặp một anh Đại Úy phi công và kết hôn với anh nầy.
Lúc học ở y khoa, tôi cũng đến các bạn cùng lớp như các cô A.N, D.C, T.N và tôi rất gần gũi với các bạn đó. Nhưng tôi phải lo học vì thấy phải chăm chú vào việc học, sợ nếu thi rớt thì bị đi lính (động viên) nên tôi không dám ngỏ lời, nhưng nếu tôi ngỏ lời, tôi biết các nàng cũng không chịu tôi vì tôi nhỏ con ốm yếu.
Con người ta có duyên số. Duyên tùy của tôi rồi một ngày đẹp trời, tôi đã gặp cô nàng của tôi và kết duyên cùng nàng.
Tôi gặp cô M.T.K. Liên (DK 67) trong một buổi gác thi ở Đại Học Y Khoa Saigon. Số là, cuối năm thứ 5, tôi đã được làm nghiệm chế viên ở khu Cơ Thể Bệnh Lý. Ở kỳ thi cuối năm thứ 3, niên khóa 1968, bác sĩ Lê Tài Sinh, giảng nghiệm viên, được cử đi làm trưởng ban giám thị kỳ thi, không biết vì lý do gì, anh lại nhờ Nguyễn Gia Khánh thay thế, rồi Khánh lại nhờ tôi thay thế, tôi cũng nhận lời. Ở phòng thi, gặp dược sĩ Kim Liên, là giảng nghiệm viên khu Vi Trùng Học của bác sĩ Vũ Quí Đài cùng gác thi chung với tôi.
Tôi cũng xã giao, trong khi nói chuyện, tôi thấy cô Liên hiền lành, dễ thương và nói chuyện có duyên lắm. Cô có dáng dấp e dè, rụt rè của một nữ sinh Gia Long và c ó tầm vóc như tôi. Tôi vui quá và tán tỉnh, và cuối cùng tôi xin “Em cho tôi xin số nhà” và cho tôi biết tên em luôn.
Từ đó, tôi thường lên lầu 3 của Giáo sư Vũ Quí Đài (giáo sư trưởng khu) và thường trò chuyện với nàng, vì nàng cùng làm việc chung với bác sĩ Lê Tiến Văn (bạn cùng lớp với tôi).
Tôi thì làm việc ở lầu 2 gồm có khu Cơ Thể Bịnh Lý (giáo sư Can, giáo sư Anh) và khu Mô Học, Di Truyền Học (giáo sư L.M. Lichtenberger).
Rồi một ngày đẹp trời, tôi gồng mình để tỏ tình, tôi cũng dùng văn chương để hỏi em “Mắt xanh đã để ai vào đó chưa?” và nếu chưa thì vui lòng để ý đến tôi.” Nghe tôi nói nàng cảm động và bật khóc, nói một câu khiêm nhượng “Em không biết làm dâu và cũng vụng về.” Nhưng tôi nói: “Em không có làm dâu gì hết, mình sẽ ra ở riêng.”
Rồi chúng tôi tìm hiểu nhau thêm, và cũng vào mùa xuân, tôi mạnh dạn tuyên bố: “Ra giêng anh cưới em.” Đám hỏi của tôi vào tháng 5 năm 1969 và đám cưới vào tháng 12 năm 1969.
Bà xã tôi là một người hiền lành, dễ xúc động và hay khóc. Bà xã tôi là người con thứ hai (theo trong nam là thứ ba), có một người chị và 5 em (3 trai, 2 gái). Gốc gác bên vợ tôi là người Thủ Thừa, tỉnh Long An, thuộc gia đình phú nông. Nhạc phụ tôi là một người giỏi giang, từ Long An lên Saigon làm việc, từ một chức nhỏ làm kế toán trưởng cho hãng Dainam Kosi, nhạc mẫu tôi cũng thuộc gia đình phú nông ở Thủ Thừa, Long An. Nhạc phụ tôi có bà con với giáo sư Trần Văn Bình, cựu giáo sư Petrus Ký, Phó Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, về sau là Phó Viện Trưởng Viện Giám Sát. Nhạc mẫu tôi có người chị là mẹ của bác sĩ Trần Thành Trai (YK64) (Bác sĩ Trai là con bạn dì với vợ tôi), và có một người em là má của bác sĩ Nguyễn Kim Hải (YK72), dược sĩ Nguyễn Kim Sơn (DK70).
Nhờ làm việc cần cù, chăm chỉ, nên nhạc phụ tôi cũng rất khá về tài chánh. Ngoài căn nhà ở đường Trần Quốc Toản, đại lộ 3 tháng 2 sau nầy, (về sau mở pharmacie) còn có một dãy nhà cho thuê ở đường Hoàng Đạo (sau là Trần Văn Đang).
Hai vợ chồng chúng tôi sinh được 3 người con, con gái đầu lòng sinh năm 1970, con trai sinh năm 1972 và con gái út sinh năm 1974.
Vợ chồng tôi sống rất hòa thuận, vui vẻ, không bao giờ cãi nhau. Lúc đầu, chúng tôi ở riêng, mướn một phòng ở đường Hai Bà Trưng, sau nầy chúng tôi dọn vào nhà riêng ở đường Hoàng Đạo. Bà xã tôi, ngoài công việc ở Đại Học Y Khoa, còn đứng tên tiệm thuốc cho ông bà nhạc tôi ở đường Trần Quốc Toản, góc đường Cao Thắng, xéo trước cửa của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
Năm 1974, bà xã tôi được học bổng lên đường sang Hawaii tu nghiệp về môn Microbiology, do sự đề cử của giáo sư Vũ Quí Đài, lúc đó, bà xã tôi đang mang thai, nếu sinh đúng ngày là sau tháng 9 năm 1974 và nếu vậy hai tháng sau mới cứng cáp, thì mới có thể lên đường vào tháng 11 năm 1974. Bên AMA cho biết là phải khởi hành vào tháng 9 năm 1974, không đi thì sẽ cúp học bổng không được đi. Bà xã tôi lúc đó bị Placenta Previa, nhau đóng thấp, rất nguy hiểm, phải làm việc nhẹ và nghỉ ngơi. Bà xã tôi không chịu nghe vẫn làm việc tại Đại Học Y Khoa và tối lại về nhà làm ở pharmacy. Một hôm tôi đang nói chuyện với bà xã về việc đặt tên cho con, thì bà xã tôi bị băng huyết, do nhau đóng thấp, tôi phải vội vàng kêu xe đưa đi ngay vào BSV Từ Dũ cấp cứu và nhờ giáo sư bác sĩ Vũ Thiện Phương và chị bác sĩ Lê Nguyệt Anh mổ ngay (lúc đó thai kỳ được 7 tháng). Mọi việc được êm xuôi. Bà xã được thoát chết trong gang tấc và tháng 9 năm 1974 đã kịp lên đường đi Mỹ. Cùng đi Mỹ với bà xã tôi có bác sĩ Huỳnh Diên Quý (YK64) tu nghiệp về Oncology (chương trình tu nghiệp nầy được dự trù kéo dài 1 năm từ tháng 9/74 đến 9/75).
Con gái út tôi sinh năm đó là năm Dần. Bà má vợ tôi khuyên tôi không nên làm giấy khai sanh liền, đợi đến sau Tết đầu năm 1975, qua năm Mẹo hãy làm khai sanh. Vì con gái tuổi Dần cao số, khó lấy chồng nên tôi cũng làm theo. Sau nầy, khi xuất cảnh, tôi phải khai về vụ nầy, may nhờ có giữ một số chứng từ và nhân chứng, nên mọi việc êm xuôi.
Không tin ở số phận thì cũng phải tin và tin ở những điều xảy ra cho mình. Số là, tôi làm đám cưới với nhà tôi vào ngày 20/12/1969, đó là ngày tốt có rất nhiều đám cưới tại nhà thờ Tân Định. Ngày hôm đó, cha sở phải làm 3 đám cưới liên tiếp, và đám cưới của tôi là lúc 11 giờ sáng (ít khi cha sở chịu làm vào giờ nầy, nhưng vì nể tôi).
Hôm đó, tôi không ngờ là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, đối diện nhà nhạc phụ tôi, làm lễ mãn khóa cho khóa I Cao Học Hành Chánh. Phái đoàn tôi đến rước dâu rất hùng hậu, có bác sĩ Lê Tiến Văn, phụ rể, thì bị chận lại không cho vào. Cuộc rước dâu dự trù vào 9:30 sáng, sau đó sẽ về nhà tôi, rồi ra nhà thờ Tân Định để làm lễ. Sau cùng, chúng tôi năn nỉ thì cảnh sát chỉ cho xe tôi và phụ rể được vào mà thôi. Xe ba tôi mới đến sau và một số bà con khựng lại và phải đi vòng đường khác, rồi phải đi bộ mới tới được nhà cô dâu ở đường Trần Quốc Toản, trước cửa Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Cuối cùng đến trễ giờ, chú tôi đại diện nói vài lời rồi đoàn rước dâu phải lên xe đi về nhà thờ cho kịp.
Còn việc khác, tôi cũng xin kể sau đây; hôm tôi tiễn bà xã đi du học cũng gặp trục trặc. Hôm đó, không biết vì lý do gì mà phi trường không cho ai được vào trong phòng đợi để tiễn người ra máy bay, tôi năn nỉ mãi mới được vào. Có lẽ bên trong có một VIP nào đó, cho nên các người đưa tiễn bị chặn lại, tôi thấy cũng là một điều xui cho tôi. Sau nầy, ngồi ngẫm nghĩ lại những điều xui xẻo đã qua, tôi thấy đó như là những điềm báo trước…
Con gái tôi học rất giỏi, đậu thủ khoa ở trường trung học, khi lên đại học, học khá và đậu được MBA, hạng danh dự ở Đại Học Hawaii, nhưng ra đời bị vất vả (cao số về hôn nhân, về nghề nghiệp) mặc dầu rất giỏi, cuối cùng cũng vượt qua trở ngại và thành công.
Cuộc đời khó nói trước được. Trước 1975, tôi là bác sĩ của Hải Quân, làm việc ở Bến Bạch Đằng, lại có phòng mạch. Bà xã tôi là dược sĩ phụ với nhạc phụ mở pharmacie. Rồi được học bổng đi Hoa Kỳ tu nghiệp. Khi đi tu nghiệp, bà xã tôi dự định để dành một số tiền và sau đó, tôi đi du học Hoa Kỳ, sẽ cùng dành dụm, khi trở về sẽ mua nhà cửa và mở phòng mạch.
Năm 75, tôi đã được đề nghị lên Thiếu tá. Một tương lai tốt đẹp đang chờ tôi.
Biến cố 75, làm xáo trộn hết. Tôi ở tù cải tạo, vợ tôi ở phương xa, các con tôi phải gởi bên ngoại nuôi dưỡng…
Quả thật “Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”. Rau răm (Nam) bị đắng cay vì cuộc đời có nhiều khúc quanh quan trọng…