Chuyen doi kho noi – Lam Vinh The

Sống trên đời mọi người đều như nhau, ai ai cũng muốn dòng đời trôi suông sẻ,  mọi việc đều xảy ra đúng theo ý mình muốn.  Nhưng thực tế đã cho thấy rõ là cuộc đời sẽ không bao giờ diễn ra như vậy.  Nó luôn luôn đưa ta đến những ngã rẻ bất ngờ, không biết trước được, có khi tốt, có khi xấu, có khi vui, có khi buồn.  Bài viết này cố gắng ghi lại một vài trải nghiệm của bản thân người viết về “chuyện đời khó nói” này. 

Thời Gian Còn Đi Học

Thời Gian Học Tiểu Học

Khi Ba tôi mãn phần vào đầu năm 1948, tôi chưa được đủ 7 tuổi nên chưa được đi học.  Mấy tháng sau, một buổi sáng, Mẹ tôi dẫn tôi đến ghi danh vào Lớp Chót (tức là Lớp Một hiện nay) tại một trường tiểu học tư thục nhỏ xíu (chỉ có 3 lớp: 1 Lớp Chót, 1 Lớp Tư, và 1 Lớp Ba) nhưng có cái tên rất oai là Trường Quốc Học, nằm tại ngã ba của 2 đường Legrand de la Liraye (sau năm 1954 được đổi tên thành đường Phan Thanh Giản, và hiện nay là đường Điện Biên Phủ) và đường René Vigerie (sau năm 1954 được đổi tên thành đường Phan Kế Bính, và tên mới này được giữ mãi cho đến ngày hôm nay). 

Đến tháng 9-1948 tôi mới được vào học Lớp Chót tại Trường Nam Tiểu Học Đakao nằm trên đường Albert 1er (sau năm 1954 được đổi tên thành đường Đinh Tiên Hoàng, và tên mới này được giữ mãi cho đến ngày hôm nay).  Tôi đã học tại trường này trong suốt 5 năm cùa bậc Tiểu Học (1948-1953).  Suốt thời gian này tôi chỉ là một học sinh trung bình, thường thương bực trung.  Hè năm 1953, toàn thể trên dưới 100 học sinh của 2 Lớp Nhứt A và Lớp Nhứt B của Trường Nam Tiểu Học Đakao đều tham dự kỳ thi tuyển vào các Lớp Đệ Thất của Trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký, thường được gọi tắt là Trường Petrus Ký, và, thật may mắn và bất ngờ, tôi là học sinh duy nhứt của Trường Nam Tiểu Học Đakao đã trúng tuyển.   Mẹ tôi rất vui mừng,và, cũng như Mẹ đã từng làm các năm trước đó, khi các anh chị của tôi thi đậu vào hai Trường Petrus Ký và Gia Long, Mẹ đã dẫn tội xuống Chợ Cũ, vào một tiệm bán xe đạp khá lớn trên đường Boulevard de la Somme (sau 1954, được đổi tên thành Đại Lộ Hàm Nghi, và tên mới này được giữ mãi cho đến ngày hôm nay) của một ông chủ người Hoa, và mua thưởng cho tôi một chiếc xe đạp mới tinh, nhập cảng từ Pháp.  Đây là tài sản lớn đầu tiên trong đời tôi nên tôi o bế nó ghê lắm, ngày nào cũng lau chùi láng bóng, nhưng, nói cho thật đúng, cũng chỉ được vài ba tuần gì đó thôi.

Thời Gian Hoc Trung Học

Tôi đã theo học suốt 7 năm (1953-1960) của bậc Trung Học tại ngôi trường lớn nhứt và danh tiếng nhứt của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh là Trường Petrus Ký.

Ở bậc Trung Học Đệ Nhứt Cấp (1953-1957), trong các năm đầu, tôi chỉ là một học sinh trung bình và khá: Lớp Đệ Lục F (niên khóa 1954-1955), cuối năm tôi được xếp hạng 22 trên 50 học sinh; Lớp Đệ Ngũ F (niên khóa 1955-1956); cuối năm tôi được xếp hạng 14 trên 49 học sinh.  Nhưng đến cuối năm Lớp Đệ Tứ F (niên khóa 1956-1957) thì tôi được xếp hạng 2 trên 46 học sinh   Các con số về thành tích học tập này cho thấy tôi học hành càng ngày càng khá hơn.

Lên bậc Đệ Nhị Cấp thì tôi luôn luôn được xếp hạng cao vào cuối năm:

• Lớp ĐệTam A (niên khóa 1957-1958): hạng 2 trên 62 học sinh

• Lớp Đệ Nhị A (niên khóa 1958-1959): hạng 2 trên 64 học sinh

• Lớp Đệ Nhứt A1 (niên khóa 1959-1960): hạng 5 trên 62 học sinh 

Hè năm 1960, sau khi đậu bằng Tú Tài 2, tôi đã dự kỳ thi tuyển vào năm thứ nhứt, Ban Sử Địa, Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn (ĐHSPSG), một kỳ thi tuyển rất khó khăn vì số thí sinh dự thi rất đông, lý do là vì sinh viên ĐHSPSG có học bổng rất cao là đến 1.500 đồng một tháng, trong lúc học bổng của sinh viên Trường Kỹ Sư Phú Thọ và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh chỉ có 1.000 đồng, và lương tháng của một ngươi công chức thư ký chỉ có độ 800-900 đồng, và, cũng rất may mắn và bất ngờ, tôi đã trúng tuyển, được xếp hang 4 trên 35 thí sinh đã đậu.

Thời Gian Học Đai Học

Tôi học Ban Sử Địa tại Trường ĐHSPSG trong 3 năm (1960-1963) và đã được xếp hạng như sau:

• Thi lên năm thứ hai: đậu hạng 3

• Thi lên năm thứ ba: đậu hạng 2

• Thi ra Trường: đậu Bình Thứ, nhưng tụt xuống tới hạng 13 (kết quả kém này là do trước khi thi tốt nghiệp, tôi bị bệnh rất nặng, tôi đã tưởng là không thể dự kỳ thi ra trường; chính hôm đi thi Mẹ tôi phải mướn taxi và đích thân đưa tôi đến trường để dự thi).

Dưới đây là Chứng Chỉ Tốt Nghiệp ĐHSPSG do Giáo Sư Khoa Trưởng Bùi Xuân Bào ký tên và đóng dấu ngày 24-4-1963:

Chúng Chỉ Tốt NghiệpTrường ĐHSPSG Năm 1963

Thời Gian Đã Ra Đi Làm

Tại Việt Nam

Sau khi tốt nghiệp ĐHSPSG, tôi được Bộ Giáo Dục bổ nhiệm làm Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp Hạng 4 và nhiệm sở đầu tiên của tôi là Trường Trung Học Công Lập Kiến Hòa (Bến Tre).  Tôi đã dạy học ở đó trong 3 năm (1963-1966).  Thàng 9-1966, tôi được Bộ thuyên chuyển về Trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức (KMTĐ).  Chính tại ngôi trường tân tiến nhứt của cả nước lúc bấy giờ tôi lại được Ơn Trên ban cho cái may mắn kế tiếp.  Một ngày trong niên khóa 1970-1971, một buổi sáng, trong giờ nghỉ, tôi đến thư viện để chúc mừng một người bạn, Anh Nguyễn Ứng Long, vì ngày hôm trước cả trường đã được tin là Anh vừa đươc Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bổ nhiệm vào chức vụ Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia, chịu trách nhiệm về văn khố và thư viện cho cả nước.  Viêc bất ngờ và may mắn cho tôi là, sau khi trò chuyện độ 5 phút, Anh Long đề nghị tôi thay thế Anh trông coi thư viện của trường để Anh được yên tâm rời trường đi nhận nhiệm vụ mới.[1]  Sau khi thay thế Anh Long trông coi thư viện của KMTĐ, tôi được Giáo Sư Hiệu Trưởng Phạm Văn Quảng cử đi học một khóa huấn luyện căn bản về thư viện học tại Sài Gòn do Cơ Quan Phát Triển Thư Viện (Library Development Authority – LDA), một đơn vị của Cơ Quan Viện Trợ Hoa Kỳ (United States Agency for International Development – USAID) tổ chức.  Người đứng đầu LDA là Ông Cố Vấn John Lee Hafenrichter.  Sau một số lần lên thăm Trường KMTĐ và thấy rõ những việc tôi đã làm để phát triển cái thư viện nhỏ bé của trường, Ông Hafenrichter đã đề nghị và được USAID đồng ý cấp cho tôi một học bổng đi du học Hoa Kỳ trong 2 năm (1971-1973) tại Trường Thư Viện Học, Viện Đại Học Syracuse (School of Library Science, Syracuse University = SLSSU) tại thành phố Syracuse, tiểu bang New York.

Tại Hoa Kỳ

Người xưa đã có câu: “phước bất trùng lai, họa vô đơn chí” (có nghĩa là: “phước không đến hai lần, họa không đến một lần”).  Thật là may mắn cho tôi vì câu nói này đã không đúng trong trường hợp của tôi. 

Không những tôi đã có cái may lớn là được học bổng đi du học Hoa Kỳ mà khi theo học tại Hoa Kỳ tôi lại được thêm cái may mắn thứ hai là đã được thọ giáo với Ân Sư Pauline Atherton (về sau khi đã lập gia đình với Giáo Sư Cochrane, Bà đổi tên lại là Pauline Atherton Cochrane):

Giáo Sư Pauline Atherton Cochrane – Ảnh chụp năm 2011

“Lúc đó bà đã đạt đến cấp bậc Professor (trong hệ thống đại học ở Bắc Mỹ–Hoa Kỳ và Canada–cấp giáo sư gồm có ba bậc: Assistant Professor, Associate Professor, và Full Professor hay chỉ gọi tắt là Professor).  Bà đã là một khuôn mặt lớn trong ngành, với rất nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng, và một sự nghiệp trước tác đồ sộ gồm rất nhiều sách (kể cả giáo khoa và nghiên cứu) và hàng trăm bài báo trong các tạp chí chuyên môn của Anh-Mỹ.  Ngoài việc giảng dạy tại Hoa Kỳ, bà cũng đã từng là Giáo Sư Thỉnh Giảng (Visiting Professor) của nhiều đại học tại nhiều nước trên thế giới như Canada, Úc, Ấn Ðộ, và một số quốc gia Âu Châu như Anh Quốc, Thụy Ðiển.  Do đó, không những nổi tiếng tại Hoa Kỳ, bà cũng được ngưỡng mộ tại rất nhiều nước trên thế giới, và vì thế bà cũng đã được bầu vào chức vụ Phó Chủ TỊch của Liên Hiệp Quốc Tế Các Hội Thư Viện (Vice-President, International Federation of Library Associations = IFLA).”[2]]

Bà cũng được Giáo Sư Khoa Trưởng chỉ định làm Giáo Sư Hướng Dẫn (Academic Advisor) cho tôi.  Quan hệ thầy-trò giữa Bà và tôi đã không chấm dứt vào cuối tháng 5-1973 khi tôi tốt nghiệp và về nước, mà còn tiếp diễn mãi cho đến khi Bà mãn phần vào ngày 29-7-2024, ngay cả trong thời gian tôi còn kẹt lại tại Việt Nam sau ngày 30-4-1975. 

Dưới sự hướng dẫn rất tận tình của Ân Sư, tôi đã hoàn tất chương trình Cao Học của SLSSU với điểm số rất cao (3 điểm B và 9 điểm A; ở 2 học kỳ cuối, tôi đã là một sinh viên ưu hạng với toàn điểm A (Straight-A Student), như chúng ta thấy trong Bảng Điểm bên dưới đây:

Bảng Điểm (Transcript) do Phòng Học Vụ (Registrar) của Đại Học Syracuse cung cấp

Hội Thư Viện Việt Nam

Tôi về nước vào cuối tháng 5-1973 với Bằng Cao Học về Thư Viện Học (Master of Library Science = MLS).  Đầu năm 1974, tôi đã ra ứng cử và đắc cử chức vụ Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Thư Viện Việt Nam (HTVVN) với thành phần như sau:

Danh Sách Ban Chấp Hành HTVVN Nhiệm Kỳ 1974

Với một Ban Chấp Hành gồm toàn các anh chị em còn trẻ (trên dưới 30 tuổi), trong nhiệm kỳ 1974, tôi đã thực hiện được một vài dự án công tác nhằm phát triển thư viện cho Miền Nam.  Ngay trong Lá Thư Chủ Nhiệm đầu tiên của Bản Tin của HTVVN, tôi đã kêu gọi sự đóng góp của tất cả hội viên như sau:

Tôi cũng đề nghị và được Ban Chấp Hành đồng ý một chương trình hoạt động cho nhiệm kỳ 1974 gồm các dự án như sau:[3] 

• Xuất bản TVTS như một quý san, ba tháng ra một số, một năm đủ 4 số; đồng thời cũng xuất bản tờ BT, mỗi tháng ra một số, giữa các số của TVTS

• Tổ chức 2 Khóa Huấn Luyện Căn Bản Thư Viện Học dành cho hội viên

• Tổ chức một Đại Hội Hè để thảo luận một số vấn đề chuyên môn và nội bộ của Hội

• Chấn chỉnh và kiện toàn tình trạng hội viên của Hội

• Ấn hành một số tài liệu chuyên môn

Với tư cách Chủ Tịch HTVVN, tôi đã đi gặp Ông Julio Andrews, President của Cơ Quan Văn Hóa Á Châu (The Asia Foundation) và xin Cơ Quan tài trợ.  Ông Andrews đã đáp ứng hết sức nhiệt tình, đồng ý câp cho HTVVN một ngân khoản rất lớn, nếu tôi nhớ không lầm thì số tiền này lên đến trên 2 triêu đông VN lúc đó.  Nhờ sự tài trợ “vô tiền khoáng hậu” này, HTVVN đã có thể thực hiện được hoàn toàn chương trình công tác của nhiệm kỳ 1974 đó. 

Hai khóa huấn luyện đã thành công thật tốt đẹp.  Các buổi lễ khai giảng cũng như bế giảng đều được tổ chức thật long trọng tại Giảng Đường 19 của Viện Đại Học Vạn Hanh dưới sự đồng chủ tọa cùa Thầy Thích Mãn Giác, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, và Giáo Sư Bùi Xuân Bào, Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa:

Giáo sư Bùi Xuân Bào, Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa, đọc diễn văn tại Lễ Khai Giảng Khóa Huấn Luyện

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, trao Chứng Chỉ Tốt Nghiệp cho Học viên Khóa Huấn Luyện

Tiệc trà sau Lễ Bế Giảng Khóa Huấn Luyện tại Câu Lạc Bộ của Viện Đại Học Vạn Hạnh

Ban Thư Viện Học

“Nhận thấy rõ khả năng chuyên môn cũng như tinh thần hoạt động bất vụ lợi của Ban Chấp Hành HTVVN, rất phù hợp với tôn chỉ của Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Giáo sư Ðoàn Viết Hoạt, Phụ Tá Viện Trưởng Ðặc Trách Học Vụ, đã yêu cầu Ban Chấp Hành HTVVN nghiên cứu và thuyết trình cho Hội Ðồng Viện một dự án thiết lập BTVH cho ÐHVH.  Ngày 30-4-1974, tôi đã đại diện Ban Chấp Hành HTVVN thuyết trình trước Hội Ðồng Viện về dự án nầy và dự án đã được Hội Ðồng Viện đồng thanh chấp thuận.  BTVH được chính thức thành lập như một Ban của Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, ÐHVH, và tôi đã được cử nhiệm làm Trưởng Ban đầu tiên.”[4]

BTVH đã khai giảng Học Kỳ 1 của niên khóa 1974-1975 với 70 sinh viên và với các giáo trình như sau:

• Ông Lâm Vĩnh Thế: Tổng Kê và Phân Loại I

• Cô Phạm Thị Lệ-Hương: Tổ Chức và Điều Hành Thư Viện

• Ông Lê Ngọc Oánh: Tuyển Chọn Tài Liệu

• Ông Tống Văn Diệu: Lịch sử Thư Viện

Học Kỳ 2, với các giáo trình như sau:

• Ông Lâm Vĩnh Thế: Tổng Kê và Phân Loại II

• Cô Phạm Thị Lệ-Hương: Công Tác Khảo Cứu và Trình Bày Luận Văn

• Ông Lê Ngọc Oánh: Tham Khảo Tổng Quát

• Ông Nguyễn Ứng Long: Anh Ngữ I

đã không được hoàn tất vì biến cố bi thảm của ngày 3-4-1975

Sau 6 năm sống khốn cùng dưới chế độ Cộng sản, tôi may mắn mang được gia đình rời Việt Nam đi định cư tại Canada vào tháng 9-1981 do Anh Tư tôi bảo lãnh.

Làm Lại Sự Nghiệp Tại Canada

Vì người bảo lãnh là Anh Tư tôi sinh sống tại Montréal, tỉnh bang Quebec, nên lúc đầu gia đình tôi cũng phải sống tại đó.  Do sự kỳ thị của người dân Quebec, họ không thích những gì có dính líu đến tiếng Anh, nên với bằng MLS từ một trường đại học của Mỹ, tôi đã không thê tìm được việc làm đúng chuyên môn của mình vì không một thư viện nào chịu nhận tôi cả.  Để có được một ít lợi tưc nuôi sống gia đình, tôi đã phải chấp nhận làm lao động khuân vác vào ban đêm, từ 4 giờ chiều đến 12 giờ khuya, trong một kho hàng.

Trong thời gian này, nhờ sự giúp đỡ của Ân Sư Pauline A. Cochrane tôi được theo học một giáo trình về biên mục tự động hóa với máy vi tính (Computerized Cataloguing) tai Trường Thư Viện Hoc của Viện Đại Học McGill (School of Library Science, McGill University) là một viện đại học sử dụng tiếng Anh trong giảng dạy.

Đầu tháng 4-1982 tôi tìm được một công việc làm hợp đồng trong 1 năm (từ 1-4-1982 cho đến 31-3-1983) tại Thư Viện Trung Ương của Bộ Canh Nông (Central Library, Agriculture Canada) của chính phủ liên bang Canada tại thủ đô Ottawa.

Sau đó là một thời gian làm các công việc hợp đồng lặt vặt, có khi 3 tháng, có khi 6 tháng, có cả 1 lần chỉ có 1 tháng để thay thế cho một nhân viên bị tai nạn nhẹ phải  nằm nhà thương điều trị 4 tuần lễ, cho đến tháng 8-1984 khi tôi được một việc làm thường trực (permanent) và toàn thời gian (full-time) với chức danh là Inventory Cataloguer, thuộc đơn vị Online Catalogue của Canadian Center for Occupational Health and Safety (CCOHS) tai thành phố Hamilton, tỉnh bang Ontario.

Sau 3 năm sống tại Canada với tư cách thường trú nhân (permanent resident), gia đình tôi được vào quốc tịch, và chính thức trở thành công dân Canada vào ngày 14-5-1985.

Thăng Tiến Nghề Nghiệp

Chín tháng sau khi tôi vào làm việc cho CCOHS, tôi trúng tuyển kỳ thi tuyển Manager, Online Catalogue và trở thành cấp chỉ huy của đơn vị đó từ ngày 24-6-1985.

Tôi đã liên tục làm việc tại CCOHS trong khoảng 8 năm, lần lượt với các chức vụ như sau:

• Inventory Cataloguer: 1984-1985

• Manager, Online Catalogue Department: 1985-1986

• Manager, Database Development Department: 1986-1988

• Manager, Information Resource Development Department: 1988-1992

Công việc làm tại CCOHS rất ổn định lại lương cao, từ mức lương năm 27, 491 đô la năm 1984 đã lên đến 71, 259 đô la năm 1992:

Văn thư của CCOHS về chức vụ Inventory Cataloguer với lương năm 27.491 đô la.

Văn thư của CCOHS về chức vụ Manager, Database and Information Resource Development với lương năm 71.259 đô la.

Nạn Nhân Của Đòn Phép Chính Trị Bẩn Thỉu

Cơ quan CCOHS được thành lập từ năm 1978 trong thời gian cầm quyền của Đảng Tự Do (Liberal Party = Parti libéral), chính đảng ủng hộ giới công nhân.   Năm 1992 Đảng Bảo Thủ (Conservative Party of Canada = Parti conservateur du Canada), chính đảng ủng hộ giới chủ nhân, đã nắm được chính quyền.  CCOHS trở thành một cái gai trong con mắt của Đảng Bảo Thủ và họ tìm cách phá hoại CCOHS.

Việc đầu tiên họ làm là cách chức ngay lập tức Tiến Sĩ Gordon Atherley, President của CCOHS, một chuyên gia về an toàn lao động nổi tiếng khắp thế giới.  Sau đó họ gây áp lực để các vị Giám Đốc (Director) phải đi đến chỗ xin từ chức (showing the door), và, sau cùng, là cho nghỉ việc hết các Trưởng ban (Manager).  Tôi, Trưởng Ban, Phát Triển Tài Nguyên Thông Tin (Manager, Information Resource Development Department), bị cho nghỉ việc vào ngày 30-9-1992 cùng một ngày với 3 vị Trưởng Ban Khác.  Tôi rời khỏi CCOHS mà lòng buồn vô cùng vì tôi nghĩ là tôi đã bị đối xử quá bất công, và nhứt là “mọi việc đã xảy ra hoàn toàn đi ngược lại những giá trị nhân bản của đất nước Canada và bản chất lương thiện và đôn hậu của người dân Canada.” [5] 

Năm Năm Trời Lận Đận

Sau khi bị mất việc tại CCOHS tôi đã trải qua 5 năm trời lận đận, đầy khó khăn, có lúc gần như vô vọng vì với số tuổi đời đã trện 50 chuyên đi tìm một việc làm cho đúng với khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của mình thật là như chuyện “mò kim đáy biển.”

Trong khoảng thời gian 5 năm trời đó, tôi chỉ có được hai công việc hợp đồng như sau:

• 12 tháng tại Thư Viện của Quốc Hội tỉnh bang Ontario, tại Toronto.

• 6 tháng tại Cơ Quan An Toàn Lao Động của tỉnh bang Ontario, cũng tại Toronto.

Một phần thời gian lúc đó tôi phải xin hưởng trợ cấp thất nghiệp; số tiền trợ cấp chỉ vào khoảng 50-55% mức lương trước khi mất việc nên chỉ tạm đủ sống.

Tình trạng này kéo dài cho đến ngày 2- 9-1997 khi tôi bắt đầu đảm nhận chức vụ Trưởng Ban Biên Mục (Head, Cataloguing Department) trong Thư Viện của Viện Đại Học Saskatchewan, tại thành phố Saskatoon, tỉnh bang Saskatchewan, trong vùng Đại Bình Nguyên của Canada (Grande Prairie of Canada).

Hết Cơn Bĩ Cực Đến Hồi Thới Lai

Khi nhận tôi về làm việc, Đại Học Saskatchewan đã xếp tôi vào bậc Librarian III.  Vào thời gian này, các trường đại học tại Bắc Mỹ đều áp dụng chung một hệ thống xếp hạng cho quản thủ thư viện gồm 4 bậc [6]:

• Librarian I: sau 2 năm thì có thể được xét để thăng cấp lên bậc II

• Librarian II: sau 3 năm thì có thể được xét để thăng lên bậc III

• Librarian III, sau 5 năm có thể được xét để thăng lên bậc IV

• Librarian IV là bậc cao nhứt của Librarian

Sau khi làm việc ở chức vụ Head, Cataloguing Department được 3 năm, tôi được Hội Đồng Quản Trị (Board of Directors) của Đại Học Saskatchewan xét duyệt và chấp nhận cho vào Biên Chế (Tenure) dành cho nhân viên làm việc toàn thời gian (full-time) và với quy chế thường trực (permanent status) từ ngày 1-7-2000, như ghi rõ trong văn thư chính thức của Tiến Sĩ Michael Atkinson, Phó Viện Trưởng Đặc Trách Học Vụ (Vice-President, Academic Affairs) như sau: [7]

“The University Review Committee has concluded its consideration of recommendations for tenure.  I am pleased to advise you that the Committee voted to recommend to the Board of Governors that you be granted permanent status effective 1 July 2000.

The award of tenure is an extremely important step for both you and the university.  In addition to being an important stage in your own career development, the awarding of tenure represents the University’s long-term commitment to you in recognition of the satisfactory performance of your duties during your first years at the University of Saskatchewan.”

(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ủy Ban Duyệt Xét của Đại Học đã xem xét khuyến cáo cho ông vào biên chế thường trực và đã có kết luận.  Tôi rất vui mừng thông báo cho ông là Ủy Ban đã bỏ phiếu tán thành và sẽ khuyến cáo lên Hội Đồng Quản Trị của Viện Đại Học để ông được vào biên chế thường trực kể từ ngày 1 Tháng 7 năm 2000.  Việc ban tặng quy chế thường trực là một bước tiến vô cùng quan trọng đối với ông cũng như đối với Viên Đại Học.  Ngoài việc thể hiện một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển nghề nghiệp của ông, việc ban tặng đó còn thể hiện sự cam kết lâu dài của Viện Đại Học đối với ông qua việc công nhận ông đã công tác tốt trong những năm đầu tiên tại Đại Học Saskatchewan,”)  

            Hai năm sau đó, tôi được thăng cấp lên Librarian IV.  Việc thăng cấp lên bậc IV này kéo dài hơn 6 tháng, và là một kinh nghiệm hết sức cay đắng đối với tôi vì sự ganh ghét nhỏ mọn của các đồng nghiệp trong Thư Viện, nhưng sau cùng tôi đã thắng một cách vinh quang nhờ sự sáng suốt và can thiệp trực tiếp của Tiến sĩ Michael Atkinson, Phó Viện Trưởng Đặc Trách Học Vụ (Vice-President, Academic Affairs), như ghi rõ trong văn thư chính thức đề ngày 20-3-2002 của ông như sau:

“On behalf of the University Review Committee, I am pleased to inform you that the Committee has recommended to the Board of Governors that you be promoted to the rank of Librarian IV effective July 1, 2002.  Congratulations!  You should receive a letter from the Board of Governors later this month.

The documentation provided supporting your case demonstrates that your colleagues, both on campus, across Canada, and beyond, have recognized your accomplishments to date.  Our recommendation to the Board of Governors is a vote of confidence in you as a senior member of the university community and in your continuing contribution to the academic life and vitality of the University of Saskatchewan.”

(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Thay mặt Ủy Ban Duyệt Xét của Đại Học, tôi vui mừng báo tin cho ông là Ủy Ban đã khuyến cáo với Hội Đồng Quản Trị của Đại Học để ông được thăng cấp lên Quản Thủ Thư Viện Bậc IV kể từ ngày 1 Tháng 7 năm 2002.  Xin chúc mừng ông!  Ông sẽ nhận được văn thư của Hội Đồng Quản Trị vào cuối tháng này.  Hồ sơ đã được đệ trình để hỗ trợ cho trường hợp của ông đã chứng minh rằng các đồng nghiệp của ông tại trường cũng như từ khắp Canada, và cà quốc tế, đã công nhận những thành quả mà ông đã đạt được cho đến ngày hôm nay.  Khuyến cáo của chúng tôi với Hội Đồng Quản Trị của Đại Học là một lá phiếu xác nhận sự tin tưởng của chúng tôi đối với ông với tư cách là một thành viên cao cấp của cộng đồng đại học, và đối với sự tiếp tục đóng góp của ông cho sự nghiệp và sức sống của Đại Học Saskatchewan.”)[8] 

Một vài tuần lễ sau đó, tôi được Ban Điều Hành Thư Viện (Library Management Committee = LMC) thăng cấp, bổ nhiệm tôi làm Trưởng Khối Kỹ Thuật (Head, Technical Services Divson) của Thư Viện, trông coi luôn cả 2 Ban, Ban Biên Mục và Ban Thủ Đắc (Acquisitions Department, lo việc mua sắm sách báo cho Thư Viện).  Với chức vụ mới này, tôi cũng đương nhiên trở thành một thành viên thường trực của LMC.

Nghỉ Phép Đi Làm Nghiên Cứu (Sabbatical Leave)

Viện Đại Học Saskatchewan là một trong số vài trường đại học của Canada có quy chế xếp các quản thủ thư viện vào chung một nghiêp đoàn với các giáo sư với đầy đủ các nhiệm vụ (duties) và quyền lợi (benefits).

Về mặt nhiệm vụ, giống như các giáo sư, các quản thủ thư viện cũng phải giảng dạy và làm công tác nghiên cứu.  Do đó, mỗi năm tôi đều phải dạy các khóa huấn luyện về việc sử dụng thư viên trong công tác giảng dạy và học tập của các giáo sư và sinh viên.  Tôi cũng phải thực hiện các dự án nghiên cứu với các đề tài trong ngành thư viện học và sau đó viết bài gởi đăng trong các tạp chí chuyên môn.

Bây giờ tôi đã làm việc liên tục trong 6 năm, và, vì vây, đã đủ điều kiện để xin nghỉ phép trọn 1 năm để đi làm nghiên cứu, gọi là Sabbatical Leave.  Tôi nộp đơn xin nghỉ Sabbatical Leave, ghi rõ các đề tài nghiên cứ, và đơn của tôi đã được chấp thuận.  Tôi được nghỉ Sabbatical Leave từ ngày 1-7-2003 đến ngày 30-6-2004 và được hưởng 80% lương, như ghi rõ trong văn thư chinh thức sau đây của Tiến sĩ Mark Evered, Vice-Provost (Phó Viện Trưởng Hành Chánh) kiêm Chair, Sabbatical Leave Committee (Chủ Tich Ủy Ban Sabbatical Leav):

Trong thời gian nghỉ Sabbatical Leave này, tôi đã hoàn tất 2 dự án nghiên cứu mà tôi đã đề ra trong đơn xin nghỉ phép, và sau đó đã viết thành 2 bài báo đăng trong 2 tạp chí chuyên môn của Hoa Kỳ như sau:

• Bài thứ nhứt: V.T. Lam, 2005.  “Quality Control Issues in Outsourcing Cataloging in US and Canadian Academic Libraries,” Cataloging & Classification Quarterly, tập 40, số. 1, tr..101-122.

• Bài thứ hai: “V.T. Lam và D. Friesen, 2004.  “A Web-based Database of CIA Declassified Documents on the Vietnam War,” Online, tập. 28, số. 4, tr. 31-35.

Chính Thức Nghỉ Hưu

Ngày 1-7-2006, gần đến ngày sinh nhựt thứ 65, tôi chính thức nghỉ hưu, sau khi đã công tác được gần 9 năm (từ tháng 9-1997 đến tháng 7-2006) tại Thư Viện của Viện Đại Học Saskatchewan, và chấm dứt sự nghiệp thư viện 35 năm của tôi (1971-2006, với 10 năm tại Việt Nam và 25 năm tại Canada).  Vợ chồng tôi dọn nhà trở về thành phố Hamilton, thuộc tỉnh bang Ontario, và chung sống với 2 đứa con trai đã trưởng thành của chúng tôi trong ngôi nhà mà chúng tôi đã mua từ năm 1988.

Thay Lời Kết

Kết thúc cuộc đời đi làm, dạy học và làm công tác thư viện, kéo dài hơn 43 năm, với 18 năm tại Việt Nam, và 25 năm tai Canada, qua bao nhiêu thăng trầm, tôi đã nhận ra thật rõ là đã có rất nhiều việc xảy ra hoàn toàn không do tôi quyết định và lựa chọn, mà do Ơn Trên sắp xếp và ban cho tôi.  Tôi thành tâm Cảm Tạ Ơn Trên về những ân huệ quý báu đó.   

GHI CHÚ

1. Lâm Vinh-Thế.  Một ngã rẻ bất ngờ và may mắn, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/mot-nga-re-bat-ngo-va-may-man-lam-vinh-the/   

2. Lâm Vĩnh-Thế. Tình nghĩa thầy trò Mỹ-Việt, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://petruskyaus.net/tinh-nghia-thay-tro-my-viet-lam-vinh-the/   

3. Lâm Vĩnh-Thế. Tròn nhiệm vụ: hồi ký của một quản thủ thư viện Canada gốc Việt.  Westminster, CA: Nhân Ảnh, 2021, tr. 52.

    4. Lâm Vĩnh-Thế. Tròn nhiệm vụ, sđd, tr. 61-62.

    5. Lâm Vĩnh-Thế. Tròn nhiệm vụ, sđd, tr. 122.

    6. Librarian Clasiication Levels, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://hr.mcmaster.ca/app/uploads/2019/02/Classification-Levels-Descriptions-Document-1-42.pdf     

    7. Lâm Vĩnh-Thế. Tròn nhiệm vụ, sđd, tr. 135-136.

    8. Lâm Vĩnh-Thế.  Tròn nhiệm vụ, sđd, tr. 139.