CHẶNG DỪNG CHÂN CUỐI CÙNG SAN JOSE
Trần Văn Nam
(Trích: Trần Văn Nam 80 năm cuộc đời)
Sau khi dừng chân ở San Francisco, tôi đã đến San Jose để làm việc và sinh sống. Từ đó đến nay, đã trên 32 năm với bao công tác, sinh hoạt… và rất nhiều kỷ niệm. Tôi đã lập lại cuộc đời tôi tại đây.
San Jose chắc hẳn có nhiều chuyện lạ và chuyện sinh hoạt của tôi, và đời sống tôi có nhiều bước ngoặt. Tôi lần lượt sẽ kể cho quý vị về các sinh hoạt của tôi, nhưng trước hết, tôi muốn trình bày về một chương trình cho cộng đồng Việt Nam: Chương Trình Phòng Ngừa Rượu và Ma Túy.
CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG NGỪA RƯỢU VÀ MA TÚY
Tôi bắt đầu làm việc tại Quận hạt Santa Clara vào đầu tháng 10-1990. Lúc đầu tôi phải lái xe từ San Francisco đến San Jose (50 miles) để đi làm, thường là 1 tiếng đồng hồ lái xe. Sau nầy, tôi mới di chuyển xuống sinh sống và làm việc tại San Jose.
Bà xếp của tôi, trước đây là một y tá, có chồng là một quân nhân Mỹ từng chiến đấu ở Việt Nam, nên muốn thiết lập một chương trình Phòng Ngừa Rượu và Ma Túy giống như chương trình Sức Khỏe Là Vàng của đại học y khoa San Francisco.
Bà xếp của tôi là bà Marshe Koster, R.N, M.A, lúc đầu đã tuyển dụng anh Phan Minh Quý để phụ trách chương trình nầy. Anh Quý, trước 75, là giáo sư Triết ở trường Quốc Gia Nghĩa Tử, Việt Nam, tốt nghiệp đại học Sư Phạm năm 1952. Định cư tại Mỹ, anh đã đậu bằng Master of Social Work. Anh Quý rất xông xáo và cũng có kinh nghiệm hoạt động cộng đồng, nhưng không có chuyên môn về y tế cộng đồng. Anh Quý đã giới thiệu bà Marshe Koster và bà phụ tá gặp tôi và tuyển dụng tôi làm việc một chương trình mới, một chương trình đầu tiên ở Mỹ về ngừa uống rượu (quá chén).
Anh Quý về sau làm việc ở Department of Merter Health và đã về hưu gần 15 năm nay.
Do đó, ngoài tôi ra, chúng tôi đã lập ra một Hội Đồng Cố Vấn (Prevention Task Force) để cố vấn cho chương trình. Chúng tôi đã mời bác sĩ, luật sư, lãnh đạo tôn giáo… trong số đó có BS Nguyễn Văn Tạo, luật sư Đỗ Văn Quang Minh, linh mục Nguyễn Mạnh Tân, Thượng tọa Thích Giác Lượng, giáo sư Trần Công Thiện, anh Nguyễn Văn Lợi, chủ nhà hàng Golden Chopstick.
Hội Đồng Cố Vấn cứ 2 tháng họp một lần để nghe chúng tôi báo cáo những hoạt động và cho ý kiến để chúng tôi thực hiện hiệu quả, vì lúc đó cộng đồng Việt Nam đã trưởng thành, công việc làm ăn rất khấm khá nên nhiều quán ăn nhậu mọc ra như nấm và nhiều quảng cáo về rượu được phát hình trên TV và đài phát thanh.
Cũng như Chương Trình Sức Khỏe Là Vàng, tôi bắt đầu viết các bài y tế thường thức về tác hại của rượu đối với sức khỏe được đăng trên tuần báo Thằng Mõ ở San Jose. Bài nầy đã được độc giả đọc rất thích thú, sau nầy được các báo khác đăng lại vì lúc đó tài liệu y học bằng Việt ngữ rất hiếm, trên toàn quốc Mỹ chưa có ai viết ra.
Song song với công việc trên, tôi thường xuyên xuất hiện trên đài truyền hình của ông Đỗ Vẫn Trọn để được phỏng vấn. Người phỏng vấn tôi là MC Quốc Bảo. Tôi cũng làm các brochure ngắn về rượu và sau đó là ma túy.
Sau nầy, tôi tổng hợp lại những bài viết đã đăng báo và họp thành một cuốn sách có tên là “Làm Thế Nào Để Bảo Vệ Sức Khỏe”. Cuốn sách gồm nhiều chương, nói về các vấn đề nóng hổi như rượu, ma túy, bệnh AID, thuốc lá, huyết áp cao.
Cuốn sách chính thức ra mắt vào tháng 9-1992 tại nhà hàng Ritz ở đường số 1 với số quan khách khoảng 200 người gồm nhiều nhân vật ở cộng đồng Việt Nam và cộng đồng Mỹ… vì đó là một cuốn sách đầu tiên bằng Việt ngữ xuất bản ở Hoa Kỳ.
Cuốn sách được in 3000 cuốn và đã được phát không cho đồng bào tại các hội chợ Tết, hội chợ Y Tế và các phòng mạch bác sĩ.
Sau đó, tôi đã dịch cuốn sách Grow Up Drug-Free với tựa đề “Giúp Trẻ Em Lớn Khôn Không Vướng Mắc Ma Túy” với nội dung là hướng dẫn cha mẹ sinh hoạt với con cái, nói chuyện với các em. Cuốn sách cũng được nhiều ấn bản và phát không cho cộng đồng với sự bảo trợ của báo Mercury News.
Ngoài ra, nhận thấy tầm quan trọng của rượu cho nên một ngân khoản 10.000 đô la được tài trợ để chúng tôi nghiên cứu về vấn đề uống rượu của cộng đồng Việt Nam. Sở Y tế đã mời tiến sĩ Amonth Padille, giáo sư đại học Stanford cộng tác trong chương trình nghiên cứu kể trên.
Hai thành phần người Việt tham gia vào cuộc nghiên cứu nầy trên 300 người được chọn một cách tình cờ trong niên giám điện thoại và đồng ý hợp tác. Nhóm người thứ nhì thuộc thành phần say rượu bị bắt và đang theo chương trình học tập của ADCI gồm 61 người.
Theo cuộc nghiên cứu nói trên, đa số phái nam thường dùng rượu, phụ nữ dùng rượu rất ít. Tuy nhiên, giới phụ nữ có công ăn việc làm tại đây dễ có cơ hội dùng rượu luôn. Những người đã nghiện rượu thuộc phái nam, độc thân, có công ăn việc làm. Tuy những lý do đưa đến nghiện rượu phần lớn người ta cho biết vì xuống tinh thần, vì những khó khăn riêng trong gia đình và ngoài xã hội.
Sau cuộc nghiên cứu nầy, chúng tôi được cơ quan An Toàn Lưu Thông (Office of Traffic Safety) của… Bay California tài trợ để lập chương trình “Cảnh giác về rượu dành cho người Việt” với ngân sách $100.000/1 năm.
Chương trình chúng tôi có mời anh Trần Đình Tuấn (LCSW) đang làm việc ở Social Services và chị Nguyễn Thị Kim Phượng (MCW), counselor ở Mission College cộng tác với chương trình chúng tôi.
Chúng tôi đã soạn một cuốn sách để các cơ quan có thể sử dụng và tổ chức những buổi học tập dành cho công chúng, kèm theo một bộ phim với đề tài Hướng Về Tương Lai với 3 chuyện phim: Hoa Kỳ, dài 14 phút, Gia Đình và Men Rượu dài 14 phút, Từ Men Rượu 11 phút, và 1 cuốn sách dành cho học viên đã sử dụng.
Sau đó, chúng tôi mời trên 10 hội đoàn và cơ quan để tổ chức những buổi hội thảo về vấn đề rượu, dùng các mạng của chúng tôi. Mỗi cơ quan nhận được $2.000 và có tặng cho mỗi người tham dự $20. Trong số cơ quan tham dự có IRCC, có hội Ái Hữu Gia Long, năm đó hội trưởng là BS Lê Phương Thúy.
Sau đó, chúng tôi đã thiết lập một chương trình giảng dạy về DUI cho người Việt Nam.
Người bị bắt về tội uống rượu lái xe sẽ bị nhiều hình phạt, ngoài ra phải học một lớp học và cố vấn tâm linh trong 15 tuần lễ, mỗi tuần 2 giờ. Lúc đầu, các lớp nầy do Department of School Services của chúng tôi phụ trách và giảng viên người Việt Nam là BS Phạm Nhựt Hồng (YK59). Sau nầy vì quá đông và cơ sở hơi chật hẹp nên đã ký khế ước với các cơ quan bên ngoài do đó các học viên tránh được mặc cảm phạm tội. Sở chúng tôi được giao cho cơ quan AACI (Asian American for Community Involment) phụ trách chương trình nầy. AACI là một cơ quan y tế xã hội bất vụ lợi do bác sĩ Alain Seed làm giám đốc. Bác sĩ Seed là một bác sĩ chuyên khoa tâm thần, gốc người Trung Hoa, rất am hiểu văn hóa của người Hoa và người Việt Nam, ông rất khôn ngoan, lanh lợi và biết cáchdùng người. Ông quen nhiều chánh trị gia có uy tín gốc người Hoa, người Nhật… nên xin được nhiều tiền tài trợ.Ông thường tuyển dụng nhiều bác sĩ gốc Á châu, nhất là bác sĩ Việt Nam mới qua Mỹ, chưa thi lại bằng hành nghề vào cơ quan của ông để làm việc.
Cơ quan của ông có nhiều chương trình dành cho người Việt như: thuốc lá, bệnh AIDS, ma túy, tâm thần… Về chương trình tâm thần, ông có mời BS Nguyễn Văn Tạo làm bác sĩ điều trị và cố vấn cho cộng đồng Việt Nam. BS Tạo có giới thiệu tôi với bác sĩ Alain Seed làm cố vấn các chương trình tâm thần, thuốc lá…
Về chương trình DUI, ông có nhờ tôi và BS Phạm Nhựt Hồng viết một chương trình để giảng dạy cho chương trình nầy. BS Hồng nguyên là y sĩ Trung Tá, chỉ huy trưởng Trung Tâm 3 Hồi Lực ở Việt Nam trên 15 năm, ông đã làm việc tại Trung Tâm Navarez (Mental health) ở trên đường Tully.
Trong thời gian trên, tôi còn cộng tác với Hội Y Sĩ Việt Nam Bắc California, mở các lớp giáo dục y tế cộng đồng miễn phí. Chúng tôi mời được nhiều bác sĩ đến giảng dạy với nhiều đề án như tim mạch, tiểu đường, nhức đầu, mắt cườm… Chúng tôi được giảng dạy tại bệnh viện San Jose đường Santa Clara và được bệnh viện tài trợ chi phí. Chương trình nầy do BS Mai Diệp Hùng làm trưởng ban và tôi làm điều hợp viên.
Cuốn sách nầy đã được Sở Y Tế Quận hạt Santa Clara bảo trợ đã in 3.000 cuốn với chi phí hơn $10.000 được phát không cho đồng bào ở cơ sở y tế, hội chợ y tế, chương trình Sanh Dễ Đẻ Vui…
Cuốn sách được phát hành vào cuối năm 1996 khi Quận hạt nhận thức được sự phát triển của cộng đồng và nhu cầu y tế cho người Việt Nam. Sở đã tuyển dụng 3 bác sĩ Việt Nam làm việc tại các y viện thuộc bệnh viện Bascom, đó là BS Lê Công Đan, Trần Hiếu Độ, John Chánh và nhiều bác sĩ Việt Nam khác.
Cuốn sách nầy ngoài những bệnh thông thường, còn có hướng dẫn về cách chọn bác sĩ, làm thẻ khai bệnh, tổ hợp y tế…
Cuốn sách nầy cũng được coi như là những tài liệu đầu tiên bằng Việt ngữ ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Đồng bào đã đón nhận nồng nhiệt, các báo, đài đăng các bài in trong sách, nhứt là báo Thằng Mõ có rất nhiều người đọc.
Tôi đã làm việc 13 năm tại Chương Trình Phòng Ngừa Rượu và Ma Túy, sau đó Sở Y Tế đã điều động tôi qua các chương trình khác: Chương trình cai thuốc lá, Chương trình chủng ngừa…
Tôi đã làm việc cho tới ngày nghỉ hưu đầu năm 1999.
Một sự kiện cũng vui vui là ngoài công tác trong cơ quan chánh phủ, cuối tuần tôi phục vụ trong giáo xứ Việt Nam và giáo xứ Saint Patrick đã mời tôi giảng dạy trong chương trình Dự Bị Hôn Nhân với các đề tài: Tính dục trong hôn nhân công giáo (Human Sexuality), Family Planing (Kế hoạch hóa Gia đình trong Công giáo)…
Tôi đã giảng dạy chương trình nầy gần 20 năm và nay đã 80 tuổi, tôi vẫn tiếp tục dạy chương trình nầy.
Trong lớp học nầy, rất vui là được nói chuyện về sinh lý, thuốc Viagara… Các bạn trẻ rất vui khi thảo luận với tôi về các vấn đề nầy.
Nay đã 80 tuổi, mà các tuần tôi vào phục vụ trong ban Phụng Vụ nhà thờ Saint John thuộc Giáo xứ St.Patrick (Đức Mẹ La Vang) và tham dự các sinh hoạt cộng đồng.
Ở tuổi xế chiều, tôi đã có một niềm vui nho nhỏ, đóng góp chút ít cho đất nước, cho cộng đồng Việt Nam. Đó là những đóng góp khiêm tốn của tôi trong suốt 20 năm phục vụ ngành y tế công cộng và quả thật, ngành y tế công cộng đã giúp cho ngành y khoa điều trị, tức là giúp ích rất nhiều cho bệnh nhân đã phòng ngừa bệnh tật.