Tôi học trường Petrus Ký 6 năm,1966 – 1972, trải qua các lớp: Thất1, Lục1, Ngũ1, Tứ1 (sau đổi thành 9/1), 10B1, 12B1. Sáu năm học với tám Thầy, mỗi người một vẻ, mỗi người một tính cách nhưng tất cả đều để lại những ấn tượng sâu sắc, tốt đẹp góp phần tạo nên phong cách người Thầy của tôi khi tôi nối nghiệp các Thầy sau này.

Sau những ngày choáng ngộp, hảnh diện của các chú bé lần đầu bước vào ngôi trường cổ kính, to lớn, xinh đẹp chúng tôi trở lại thực tại để làm quen với những thay đổi trong cách dạy, cách học của bậc trung học. Thay vì một Thầy một trò như lúc học tiểu học nay thành 10 môn với 10 Thầy Cô: Quốc văn, Sử địa, Pháp văn, Công dân, Toán, Lý hóa, Vạn vật, Hội họa, Nhạc, Thể dục.

GS Trần Văn Thưởng

Môn Toán lớp Thất1 do Thầy Trần Văn Thưởng phụ trách. Lúc dạy chúng tôi, Thầy là một thầy giáo trẻ, mới 29 tuổi nhưng Thầy chửng chạc, nghiêm trang không thua những thầy cô đứng tuổi như giáo sư hướng dẫn của chúng tôi là Thầy Thẩm Túc. Thầy có những yêu cầu riêng rất rõ ràng và nghiêm khắc. Riêng về tờ giấy làm bài kiểm tra thôi, Thầy bắt buộc nó phải được gỡ ra cẩn thận từ tập chớ không giựt mạnh với lỗ thủng, khung cho điểm và lời phê phải đúng số ô và nội dung qui định. Hể không đúng là a lê: zero tất! Sau này khi học Đại học Sư phạm Sài gòn với Giáo sư NguyễnVăn Trường, nguyên Tổng trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục của Thủ tướng Trần Văn Hương, tôi gặp lại phong cách Thầy Trần Văn Thưởng. Khi đó các lớp bắt đầu học lúc 8 giờ, tức 7 giờ hiện nay, thì riêng lớp Thầy Trường học từ 7 giờ, tức 6 giờ sáng hiện nay. Khi Thầy cầm cục phấn mà bạn sinh viên nào mới đến thì Thầy nói: Xin lỗi anh, tôi dã cầm phấn, mời anh đi về! Môn Toán lớp đệ thất gồm hai phần: hình học và đại số. Phần hình học lúc đầu rất là lạ đối với chúng tôi. Tại sao phải thừa nhận những điều hiển nhiên đúng? Tại sao phải chứng minh hai tam giác bằng nhau khi mà sự thực như vậy? Tuy nhiên với lời giảng rõ ràng, khúc chiết Thầy đã tạo cho chúng tôi sự thích thú trong những giờ Toán của Thầy. Trong vài tháng đầu, có bạn không giữ đúng các qui định của Thầy và Thầy không ngại ngần cho con zero tròn trĩnh.

Sang lớp đệ lục 1, chúng tôi lại được Thầy dạy tiếp môn Toán. Năm này Thầy trò đã quen thuộc nhau nên chúng tôi học dễ dàng. Tôi nhớ môn Hình học năm này đa dạng, phong phú hơn: sự song song, vuông góc, hình bình hành, hình thoi, chữ nhựt, vuông… Năm học này do chiến sự, Tết Mậu thân 1968, nên chúng tôi chỉ học hết đệ nhất lục cá nguyệt mà thôi. Năm đó nghỉ Tết rồi nghỉ học luôn đến tận năm học sau.

Thầy Thưởng là người Thầy đầu tiên bậc trung học của tôi và cũng là một trong những Thầy tạo cho tôi ấn tượng sâu sắc. Sau này khi nối nghiệp Thầy dạy Toán, tôi mới thấy hết những cái hay của Thầy. Thầy chẳng những khai phá đầu óc non nớt của chúng tôi bằng những lý luận toán học chặt chẽ mà còn rèn luyện nền nếp học tập cho chúng tôi. Chính những kiến thức toán học này đã xây dựng nếp suy nghĩ, cách hành động phù hợp với những “định lý” của cuộc sống. Đây chính là mục đích của dạy và học toán. Thầy đã trang bị kiến thức toán để chúng tôi tiếp tục con đường học vấn đồng thời đã góp phần xây dựng nhân cách của chúng tôi.

Năm 1978 tôi may mắn được về giảng dạy tại trường mình và gặp lại Thầy. Thầy vẫn điềm đạm, nghiêm trang như xưa. Vui biết bao nhiêu khi gặp lại người Thầy kính mến của mình. Vài năm sau Thầy đi dịnh cư ở Mỹ. Năm 1994 Thầy về Việt Nam chơi. Tôi được hân hạnh họp mặt với Thầy tại nhà một người bạn của Thầy và tôi. Thầy bảo tôi: Khi nào Dũng qua Mỹ chơi thì ghé ở nhà Thầy, nhà Thầy rộng lắm. Ôi! Thương quá Thầy ơi! Tôi chưa kịp thực hiện lời mời của Thầy thì Thầy đã mất năm 2022.

GS Huỳnh Văn Lắm

Năm học 1968 – 1969 tôi lên lớp đệ ngũ 1. Hơn nửa năm ở nhà rong chơi chúng tôi mới quay lại trường. May mắn đã mĩm cười với lớp chúng tôi. Trãi qua mấy đợt chiến trận khốc liệt nhưng cả lớp vẫn an toàn, vẫn còn đầy đủ mặc dù có mấy bạn nhà cửa tiêu tan phải vào khu tạm cư sau trường, sân Lam sơn, tạm trú đợi xây dựng những khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Minh Mạng… Năm nay chúng tôi học toán với Thầy Huỳnh Văn Lắm. Thầy rất nhẹ nhàng, từ tốn nhưng cả lớp đều học hành rất đàng hoàng, nghiêm chỉnh. Tôi không còn nhớ Thầy phải giải quyết thế nào nửa năm kiến thức đệ lục mà chúng tôi chưa học nhưng cả lớp đã học như bình thường. Môn hình học bắt đầu khó hơn với những bài toán về tam giác đồng dạng, môn đại số với phương trình, hệ phương trình. Môn toán là một trong những môn học ưa thích của lớp chúng tôi nhờ vào cách dạy rõ ràng, nhẹ nhàng của Thầy. Cuối năm học, một số bạn lớp tôi cùng các lớp khác đến học lớp hè của Thầy ở chợ Nancy, gần nhà Thầy. Sau này, khi về trường giảng dạy gặp lại Thầy tôi biết thêm tài giảng dạy của Thầy. Đó là Thầy làm Giáo viên chủ nhiệm (tương tự Giáo sư hướng dẫn thời mình học) cực kỳ tốt. Lớp nào dù tệ đến đâu giao cho Thầy thì chỉ một thời gian ngắn là đâu vào đấy: ngoan ngoản, tuân thủ nội quy học sinh… ai cũng phải khen. Cách giáo dục học sinh của Thầy hay ở chỗ là không cần hò hét, không cần dùng phương pháp mạnh mẽ của bàn tay sắt mà học sinh nghe lời khiến ai cũng nể phục. Một thời gian sau Thầy và gia đình đi định cư ở Mỹ, ở Bắc Cali, gần nhà một bạn cũ cùng lớp nên lâu lâu tôi có dịp hỏi thăm Thầy.

GS Đặng Quốc Khánh

Năm học đệ tứ (sau đổi thành lớp 9), năm học 1969 – 1970, đệ nhất lục cá nguyệt lớp tôi học với Thầy Đặng Quốc Khánh. Thầy hơi đậm người, nét mặt nghiêm trang nhưng không khó tính. Tôi nhớ năm này học về đường tròn, tứ giác nội tiếp, phương trình bậc hai… Nội dung học khó hơn những năm trước (có lẻ trước đó có kỳ thi Trung học đệ nhất cấp nên có độ khó nhất định chăng?). Thầy Khánh giảng dạy tốt, chúng tôi học tương đối dễ dàng. Tính Thầy nghiêm nghị, ít khi đùa trong lớp. Năm 1974 khi học Đại học Sư phạm Sài gòn, tôi đi dạy thực tập và giờ đầu tiên lên lớp tôi dạy lớp 10 trường Petrus Ký, lớp của Thầy Khánh đang dạy. Thầy đã chuẩn bị lớp cho tôi rất là chu đáo, giờ dạy tốt cũng là nhờ Thầy lo lắng chu toàn. Sau này, những cuộc họp mặt cựu học sinh Petrus Ký ở Nam Cali đều thấy Thầy tham dự. Rất mừng Thầy khỏe mạnh, minh mẫn.

GS Trần Văn Thử

Qua đệ nhị lục cá nguyệt, lớp tôi đổi Thầy dạy toán. Thầy Trần Văn Thử thay Thầy Khánh. Thầy Thử nguyên là Hiệu trưởng trường năm chúng tôi mới vào trường và cũng là thân phụ của một bạn trong lớp. Đúng như Thầy Nguyễn Thanh Liêm đã nhận xét: “Đây là Ông Hiệu trưởng hiền từ nhất từ xưa đến giờ. Rất là dễ dãi với mọi người.”. Thầy rất hiền trong giảng dạy, có lẻ chỉ có Thầy Lê Tiến Đạt dạy chúng tôi môn Vạn vật lớp 10 mới có thể so sánh với Thầy vè sự dễ dãi mà thôi. Trong giờ Thầy, hể Thầy quay lưng lại lớp để ghi bảng thì y như rằng cả lớp tha hồ đùa giỡn, nghịch ngợm. Thầy không hề la gì chúng tôi cả. Tôi nghe Thầy Trần Thành Minh kể lại lúc Thầy Thử làm Hiệu trưởng thì trong lần thi tuyển vào lớp đệ thất của trường, các quan chức ở Bộ Giáo dục có gửi một danh sách học sinh đề nghị trường nhận vào học. Danh sách này khá nhiều. Thầy Thử hỏi ý kiến Thầy Cam Duy Lễ, Trần Thành Minh đang là Giám học và Phụ tá Giám học. Thấy danh sách quá nhiều nên hai Thầy không đồng ý. Tuy nhiên trước áp lực của Bộ và hiền lành cả nễ, Thầy Thử nhận số học sinh này vào trường. Thầy Lễ, Thầy Minh bất mãn nên nộp đơn xin từ chức Giám học, Phụ tá Giám học. Biết chuyện này các quan chức ở Bộ làm giấy thuyên chuyển hai Thầy đi trường khác. Lúc đó Tổng trưởng Bộ Giáo dục là Thầy Nguyễn Văn Trường mà tôi có nói đến ở trên. Thầy Trường chính là em Ông Nguyễn Văn Lộc, nguyên Thủ tướng miền Nam. Thấy đề nghị thuyên chuyển Thầy Trường không ký thuận và bảo: Tôi biết hai anh này rất đàng hoàng không thuyên chuyển đi đâu hết! Khoảng năm 1973, 1974 thầy Thử bệnh và mất tại nhà bên cạnh trường. Tôi có đến tiễn đưa Thầy an nghỉ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

GS Hoàng Ngọc Quỳ

Năm lớp 10, 1970 – 1971, chúng tôi học toán với Thầy Hoàng Ngọc Quỳ. Toán lớp 10 tương đối khó, học hàng điểm điều hòa, vị tự, tịnh tiến, dấu nhị thức bậc nhất, tam thức bậc hai… Năm này trong lớp, tôi và nhiều bạn, đang học song song lớp 11, chuẩn bị thi Tú tài 1 nên hầu như không học gì ở lớp 10 cả. Đúng là học lớp 10 bê bối nên tôi không nhớ Thầy Quỳ dạy thế nào chỉ còn ấn tượng Thầy dạy môn vạn vật năm đệ lục mà thôi.

Sang năm học tiếp theo, 1971 – 1972, tôi không học lớp 11 mà lên lớp 12 sau khi đậu Tú tài 1 và được tuyển bổ sung vào trường. Môn Toán do hai Thầy dạy: Thầy Cam Duy Lễ dạy giải tích, hình giải tích, phép biến đổi điểm; Thày Phan Lưu Biên dạy tân đại số và điểm động học.

Về Thầy Cam Duy Lễ, tôi xin trích lại bài viết tưởng nhớ Thầy:

GS Cam Duy Lễ

“Ngày hôm qua, 06/9/2016, tiễn đưa Thầy về Vũng Liêm, Vĩnh Long. Thầy  yên nghĩ trong sân vườn tràn ngập bóng cây. Em có biết bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu ân tình với thầy trong 45 năm qua.

Năm học 1971-1972 cả lớp 12B1 Petrus Ký hào hứng được học Toán, phần giải tích và Hình học, với Thầy. Vật lộn với những bài toán Phép biến đổi điểm: tịnh tiến, vị tự và đặc biệt là phép nghịch đảo mới có được cảm giác sảng khoái khi giải được những bài khó của Thầy. Có bài Thầy cho mà đề bài đã dài hơn trang A4. Làm được bài nào là thấy đã bài đó. Học với Thầy em biết thêm được cái đẹp của Toán, biết thêm những ý nghĩa sâu sắc của việc học Toán. Sự thích thú mà Thầy đem lại qua những giờ Toán đã góp phần giúp em lựa chọn khoa Toán khi thi vào Đại học Sư phạm.

Năm 1978, sau 2 năm lang thang, em may mắn được về dạy tại trường cũ thân yêu; được vào tổ Toán do Thầy làm Tổ trưởng. Phải nói về dạy ở trường mình là một điều tuyệt vời và ở trong tổ Toán lại càng tuyệt vời hơn nữa. Em lại là một người học trò học hỏi kinh nghiệm của những Thầy Cô yêu mến của mình. Em đã học được nhiều điều từ cách dạy, cách xử lý vấn đề, cách giáo dục học sinh… của Thầy. Em luôn trân trọng giới thiệu Thầy với các học sinh của em, nói với các em rằng Thầy là Thái Sư phụ. Thầy rất quan tâm đến lời giải hay, đẹp và nhất là có tính sư phạm. Nhớ lúc bộ đề tuyển sinh đại học còn thống trị việc dạy và học. Có những bài toán mà lời giải trong sách như từ trên trời rơi xuống, không biết trả lời học sinh tại sao tìm ra cách giải. Một lần họp tổ, Thầy treo giải một thùng bia cho lời giải đẹp của một bài toán trong bộ đề. Sau đó trong tổ đưa ra 6 lời giải khác nhau. May mắn Thầy không phải “chung độ” 6 thùng bia vì mọi người đều đồng ý 6 lời giải này cũng chưa hay. Cuối cùng lời giải đẹp lại đến từ một học sinh! Trường hợp này giống như nhà sư Hư Trúc giải thế cờ vây. Vì Thầy Cô có kinh nghiệm nên không chọn cách khai triển mà mọi người cho rằng sẽ phức tạp thêm. Ai ngờ chính vì làm phức tạp ra lại rút gọn lại bất ngờ.

Những ngày tháng cùng tổ Toán với Thầy dù không có những lần “long trời lỡ đất” như thời ở Chợ Đũi trước đây của Thầy với Thầy Tạ Ký, Thầy Tôn Thất Trung Nghĩa… nhưng cũng “lúy túy càn khôn”. Làm sao quên được những đêm đến nhà Thầy xem Euro, World Cup. Giữa khuya mới thi đấu nhưng từ chiều đã tụ tập đông đủ. Lai rai, bàn chuyện trên trời dưới đất và cuối cùng là ngủ lăn quay chẳng biết gì đến trận đấu. Sau đó nhóm “thân hữu” mở rộng được thành lập mỗi tháng gặp nhau một lần. Nhớ biết bao nhiêu không khí thân thương, vui vẻ, gần gũi của những lần họp mặt. Có lần Thầy mang đến một chai rượu mà chưa ai uống qua. Anh em đã thỏa thuận với nhau trước nên khi uống không ai khen lấy một câu. Thầy thấy kỳ nên uống xong mới hỏi: Sao tụi bây? Uống được không? Tụi này mỗi đứa chê một câu, đại khái chai rượu gì mà bằng sành, chẳng nhìn thấy rượu đâu, uống cũng thường thôi. Thầy hơi quê bảo: Nhưng theo phép lịch sự của tao đem tới tụi bây phải khen chứ. Lúc đó mọi người mới cười ầm lên bảo ngon lắm sư phụ ơi! Đó là chai Chivas 21.

Nhớ Noel năm nào cách nay chắc khoảng 25 năm anh em cũng tụ họp vui với nhau. Lúc 2 giờ sáng một Thầy chạy đến nhà mình báo tin Thầy bị té xe đang ở bệnh viện (lúc đó chưa có điện thoại). Hết hồn vội vã cùng chạy vào bệnh viện thì may mắn Thấy chỉ bị mẻ xương ở gò má mà thôi. Các bạn lại phân công mình một việc khó là chạy ra nhà báo tin cho Cô. Thôi thì Thầy mạnh khỏe là mừng rồi nên cũng ráng gồng mình làm nhiệm vụ. Sau này khi con Thầy làm bác sĩ bệnh viện NĐ1, Thầy thường nói với bạn bè có gì cần giúp thì cứ báo và những trường hợp đó Thầy đều tận tình giúp đỡ.

Còn biết bao nhiêu chuyện buồn vui nữa Thầy ơi!

11g30 đêm 02/9/2016, thầy Trần Thành Minh gọi điện thoại báo tin Thầy bị té xuất huyết não chắc không qua khỏi. Chưa kịp bàng hoàng, sáng sớm chạy đi thăm Thầy thì Cô gọi báo Thầy đã mất.

Làng giáo Toán Sài gòn mất đi một cây đại thụ. Tụi em mất đi một con chim đầu đàn. Nỗi buồn này biết bao giờ nguôi! Bây giờ những lần ngồi vui vẻ, sảng khoái với Thầy chỉ còn trong mơ, trong hồi tưởng.

Thôi chỉ còn biết an ủi rằng Thầy ra đi nhẹ nhàng. Trong lòng Thầy lúc nào cũng vui vì con cháu thành đạt, hiếu thảo.

Thầy ơi, những hình ảnh, những kỷ niệm của Thầy sẽ luôn giữ mãi trong lòng người thân, trong lòng bạn bè và trong lòng những đứa học trò của thầy.

Rồi đây tụi em, dân cựu học sinh Petrus Ký, mỗi khi ngồi với nhau sẽ nhớ tới Thầy biết bao nhiêu.”

GS Phan Lưu Biên

Thầy Phan Lưu Biên giảng dạy chúng tôi phần tân đại số: luật nội hợp, nhóm, vành, trường, số tạp… Thầy dạy dễ hiểu, rõ ràng. Đề thi tú tài 2 năm đó có một bài thuộc phần này và đa số chúng tôi làm dễ dàng. Khi dạy, Thầy có sử dụng sách do Thầy Trần Thành Minh, Lê Văn Đặng và Thầy biên soạn, nhà xuất bản Trí Đăng phát hành. Năm đó Thầy lái chiếc xe LaDalat mới đi dạy. Tôi nhớ có hỏi Thầy và Thầy bảo: Tiền viết mấy quyển sách toán đó. Sang năm sau Thầy về Nha Khảo thí phụ trách ra đề thi tú tài. Tới năm 1975, Nha Khảo thí bị giải tán Thầy chuyển về dạy trường Bổ Túc cán bộ ở Thủ Đức. Khi trường này giải thể, Thầy lại dạy trường mình cho đến khi về hưu. Hiện Thầy đã 86 tuổi nhưng rất khỏe. Hằng tháng tự chạy xe gắn máy từ nhà phía cầu Bình Lợi xuống họp mặt cùng bạn bè.

Trên đây là tám Thầy đã dạy môn toán tôi ở trường Petrus Ký. Tuy nhiên là thiếu sót to lớn nếu tôi không viết về hai Thầy Cô gần gũi cũng như nổi tiếng ở trường ta.

GS Trần Thành Minh

Người đầu tiên tôi muốn giới thiệu là Thầy Trần Thành Minh. Thầy không dạy tôi ở trường nhưng tôi học ở Thầy rất nhiều điều trong suốt thời gian làm việc chung với nhau. Về trường vài năm, tôi làm Thư ký Hội đồng (tương tự Phụ tá Giám học trước đây) còn Thầy làm Phó Hiệu trưởng. Cùng làm việc với Thầy tôi đã học được phuơng pháp làm việc, phuơng pháp giảng dạy… Nghề xếp thời khóa biểu khi chưa có sự hỗ trợ của máy tính là tôi học từ Thầy Minh và Thầy Huỳnh Thanh Nghiêm (dạy môn Pháp văn). Đặc biệt, tôi được tham gia cùng Thầy và Thầy Biên viết các quyển sách bài tập toán, thay vị trí Thầy Lê Văn Đặng trước đây. Dĩ nhiên viết mấy cuốn sách nhưng tiền bản quyền chẳng đáng là bao không như Thầy Phan Lưu Biên trước kia viết sách mua được xe hơi. Thầy cũng cựu học sinh Petrus Ký. Hiện nay Thầy Minh 87 tuổi, vẫn khỏe, hằng tháng vẫn đến họp mặt cùng bạn bè đồng nghiệp hưu trí.

GS Nguyễn Thị Khả

Người tiếp theo tôi xin giới thiệu Cô Nguyễn Thị Khả, Cô giáo dạy toán duy nhất của trường Petrus Ký khi đó. Dù học hay không học Cô nhưng hể là học sinh Petrus Ký thời Cô dạy là phải biết Cô qua câu: Nhất Khả, nhì Hương… Tôi cũng không hân hạnh học với Cô. Khi học lớp 9, một lần đi ngang qua lớp 9/5 hay 9/6 tôi nhìn thấy một hình ảnh mà vẫn còn ấn tượng đến bây giờ. Đó là hình ảnh cả lớp quỳ gối trên băng ghế mà vẫn nghiêm chỉnh nghe giảng, chép bài. Một điều mà khi xem danh sách học sinh trường năm học 1950 – 1951 tôi mới biết Cô cũng là cựu học sinh trường. Vào thời Cô, muốn thi tú tài, nam lẫn nữ, thì phải học trường Petrus Ký vì khi đó chỉ có trường mới có lớp bậc tú tài. Sau này khi cùng dạy với Cô mới thấy Cô nghiêm khắc nhưng hợp lý và công bằng. Học trò sợ Cô nhưng luôn kính nể, tôn trọng Cô. Cô xây dựng nền nếp học tập trong lớp rất khoa học, đâu vô đó. Lần cuối gặp Cô tại nhà khi thăm Cô lúc Cô bệnh. Cô mất năm 1979 khi Cô mới 49 tuổi.

Trên đây tôi ghi lại những ấn tượng, những kỷ niệm của các Thầy Cô dạy Toán khi tôi học tại trường. Những tình cảm với các Thầy Cô vẫn sâu đậm trong lòng tôi. Gần 60 năm, có thể một số chi tiết lẫn lộn theo thời gian xin ghi lại đây để nhớ lại một thời đẹp đẽ của tuổi học trò đã qua.