Sau khi Bác Sĩ Đại Úy Trần Công Hiệp khám các vết thương xong, ông ra lệnh cho các y tá thay mới lớp bột bó chân tay cho tôi, đây là lần thứ hai thay bột. Trung bình cứ khoảng 2 tháng thay một lần, như vậy tôi đã nằm bệnh viện hơn 3 tháng! Đây là Bệnh Viện Lê Hữu Sanh (Thị Nghè, Sàigòn) là bệnh viện điều trị cho các thương bệnh binh TQLC.

Khi tôi về đây thì đã có Đại Úy Nguyễn Kim Tiền TĐ3, anh bị bắn gãy xương ống quyển ở trận núi Mây Tàu. Vài ngày sau thì đến Đại Úy Đoàn Đức Nghi TĐ5, anh bị bắn vào đùi, tiếp đến là Đại Úy Lê Bá Bình TĐ3. Trong số mấy thương binh này tôi là người bị nặng nhất: gãy chân phải, gãy tay trái, đứt gân tay phải, nhưng nhờ tải thương kịp thời và được các Bác Sĩ TQLC tận tình cứu chữa nên không bị … cưa.

Xin gửi lời cám ơn muộn màng đến các “Thần Y” áo trắng TQLC: Trần Công Hiệp, Trương Minh Cường, Nguyễn Văn Dõng, Nguyễn Văn Hạnh, nhất là hai vị săn sóc tôi hằng ngày khiến tôi chảy nước mắt vì cảm động, vì đau, đó là: Y Tá Trưởng Thượng Sĩ Nguyễn Văn Kha và Hạ Sĩ Bùi Văn Thành.

Mỗi buổi sáng khi Y Tá Thành xuất hiện với y cụ để săn sóc vết thương là tôi sợ run. Vì xương ống chân tay bị bể nên Hạ Sĩ Thành phải săn sóc kỹ, mỗi lần anh dùng que nhét miếng băng vào sâu trong vết thương để thấm hết máu mủ rồi kéo ra, miếng băng chạm vào những đầu miếng xương vỡ là bệnh nhân điếng hồn. Còn Thượng Sĩ Kha, mỗi khi tháo lớp bột cũ ra, anh dùng cưa máy, lưỡi tròn như đồng tiền, lưỡi cưa quay tròn như xé gió, cắt lớp bột bó chân tay khiến thương binh như nằm trên đoạn đầu đài, nhưng dưới lớp bột khô cứng là những lớp bông gòn, nhờ đó, trước khi lưỡi cưa chạm vào da thịt thì gặp lớp bông gòn cuốn vào làm lưỡi cưa dừng lại, nhưng cũng đủ làm thương binh đổ mồ hôi ướt áo quần.

Sau hơn hai tiếng bó bột mới, tôi mệt nhoài, thêm nỗi khổ ngứa chân tay mà không gãi được, gãi bên ngoài lớp bột ư? Chịu không nổi, tôi phải dùng móc sắt thọc vào gãi bên trong mới đã, sau cơn “đã” là những nỗi xót xa!

Còn đang mơ màng với cái “thú đau thương” thì tôi nghe tiếng ồn ào ngoài hành lang rồi họ ào vào phòng tôi đang nằm. Họ là: Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc[1] – TĐT/ TĐ2, Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ – TĐP, Đại Úy Trần Văn

Hợp1, Đại Úy Vũ Đoàn Dzoan, Trung Úy Nguyễn Văn Quang1 – Đại Đội phó của tôi. Sau hơn 3 tháng hành quân vùng U Minh, Chương Thiện, họ mới về hậu cứ để tái trang bị, bổ xung quân số, nghỉ chừng hơn tuần rồi lại đi hành quân tiếp. Anh Phúc bảo tôi:

– Thay quần áo đi rồi về hậu cứ chơi, kỳ tới tụi tao đi xa và lâu hơn.

Mấy tháng nay rồi, tôi chỉ chống nạng cùng xe lăn quanh quẩn trong căn phòng bao trùm mùi alcol, thuốc đỏ, tôi thèm không khí “tự đo”, nay được về hậu cứ vui cùng cấp chỉ huy, đồng đội thì còn gì bằng. Tôi xin phép Bác Sĩ Hiệp, ông đồng ý ngay, thay quân phục xong, anh em khiêng tôi ra xe chạy về hậu cứ: Trại Lê Hằng Minh, Thủ Đức.

Niềm hạnh phúc nhất đời lính chiến là sau khi bị thương mà còn được trở về thăm đơn vị cũ trong vòng tay ấm áp và nụ cười của cấp chỉ huy, đồng đội, đàn em. Tôi đã được hưởng diễm phúc đó, càng vui hơn khi chính Tiểu Đoàn Trưởng chụp cho những tấm hình để làm kỷ niệm. Những tấm hình quý giá theo thời gian và cũng đầy thương tiếc đau buồn khi nhìn tấm hình đã thiếu đi một vài người, họ đã không trở về sau chuyến hành quân!

Tấm hình nhỏ bé này tôi bất ngờ tìm thấy trong một cuốn sách khi tôi dọn nhà từ Lawndale, Los Angeles về Little Saigon năm 2000. Tôi không thể nhớ vì sao tôi có tấm hình này, bằng cách nào tôi còn giữ được tấm hình quý giá này sau nhiều năm tháng chiến tranh, tù đày, rồi “di cư tị nạn” CS. Ngược lại tôi nhớ từng chi tiết “lý lịch”, dù tấm hình đã chụp hơn 50 năm (10/1969).

Rồi tình cờ, một người bạn trẻ – “chuyên viên” của Nguyệt San KBC – thấy tấm hình này, anh đề nghị để anh phóng to ra cho tôi. Ánh nói:

– Một tấm hình đẹp, cần phóng to ra treo tường cho mọi người thấy.

– Tôi cũng muốn lắm, nhưng chưa biết làm cách nào?

– Để em lo, “lệ phí” là một bài viết cho KBC về “lý lịch” tấm hình này.

Vui biết bao khi tôi đã có tấm hình thật lớn treo tường. Cháu ngoại thấy chân tay tôi bó bột, cháu hỏi: “Ông ngoại bị đụng xe hả?” Tôi cười, đứng ngắm mãi những đồng đội xưa cho tới khi mắt mờ hơi sương, thương nhớ các anh: “Anh ở nơi nào, ảnh ở đây!

Và đây là “lệ phí” cho Nguyệt San KBC:

***

Tấm hình này do Thiếu Tá Nguyễn Xuân Phúc – Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC, chụp tại hậu cứ Trại Lê Hằng Minh (Thủ Đức) nhân dịp Tiểu Đoàn về nghỉ ở hậu cứ để bổ sung quân số, tái trang bị vũ khi sau hơn 3 tháng hành quân Chương Thiện, U Minh, để rồi anh em lại lên đường hành quân từ Bến Hải đến mũi Cà Mau, vượt biên diệt trừ Pôn-pốt, thấm máu Hạ Lào.

Tấm hình giống như bao tấm hình khác ghi lại cảnh “đồng đội cũ, chiến trường xưa”, nhưng với tôi, khi đứng ngắm tấm hình xưa thì lòng dâng lên niềm cảm xúc nghẹn ngào, nhớ thương của người lính già tuổi 82:

Người lính già khóc trong bệnh viện. Khi mũi kim tiêm đâm vào da thịt. Nước mắt giàn giụa như uất ức điều chi, đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì….” [2]

Tôi bất lực không thể nói hết tất cả bi hùng tráng thời trai của những người trong tấm hình, các anh và tôi có những liên quan sống – chết mật thiết với nhau. Các anh là những “cây tùng trước bão” thuộc TĐ2/TQLC, tục danh “Trâu Điên”, đó là: Trung Úy Nguyễn Văn Quang, Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ, Đại Úy Trần Văn Hợp, Đại Úy Vũ Đoàn Dzoan, Trung Úy Phạm Văn Tiền.

Trung Úy Nguyễn Văn Quang:

Anh sinh năm 1943, tốt nghiệp Khoá 19 Thủ Đức ngày 27/8/1965, tình nguyện về Binh Chủng TQLC. Ngắm hình Trung Úy Quang cười làm tôi nhớ lại đoạn đường chiến binh mà anh là Trung Đội Trưởng và tôi là Đại Đội Trưởng ĐĐ1/TĐ2 cùng nhau bò dưới hoả lực địch quân suốt mấy năm trời, nhất là giai đoạn chiến trường gay cấn, từ trận kinh Cái Thia 31/12/1967 đến Mậu Thân tại Sài Gòn, trận Cầu Khởi, Bời Lời ngày 14 – 16/9/1968. Chỉ trong vòng một năm, TĐ2/TQLC đã 3 lần được tuyên dương công trạng trước Quân Đội, trong đó có sự đóng góp máu và nước mắt của Trung Uý Quang.

Công trạng như thế, thâm niên như thế, nhưng khi ngồi chụp tấm hình này (10/1969), anh mới chỉ là Trung Úy Đại Đội Phó, trong khi đồng Khoá 19 Thủ Đức của anh ở binh chủng khác đã là đại đội trưởng, tiểu đoàn phó hoặc cao hơn. Nhưng anh không hề so bì, than vãn, mà vẫn hãnh diện là một TQLC, dù con dường tiến bước đầy chông gai.

Đây là tình trạng chung của Binh Chủng TQLC, “đất chật người đông”, trong khi các đại đội trưởng là đại úy thì làm sao có chỗ cho các anh vươn lên, trừ khi đại đội trưởng bị loại khỏi vòng chiến: trọng thương hay tử thương. Đó là trường hợp của tôi và Quang. Trung Úy Nguyễn Văn Quang là Đại Đội Phó của tôi, sau khi tôi bị loại khỏi vòng chiến (6/1969) thì Trung Úyý Quang mới được “xử lý” đại đội trưởng. Nhưng…

Tôi không muốn viết những chữ “nhưng”, nhưng Trung Úy Quang – ĐĐP của tôi – mới vừa chạm tay tới mục tiêu hằng mong ước: “Đại Đội Trưởng TQLC” thì gãy gánh nửa đường. Trung Úy Quang đã tiến nhanh, quá nhanh như viên đạn xuyên qua người Anh trên chiến trường Campuchia, Trung Úy Nguyễn Văn Quang được truy thăng Cố Đại Uý!

Bạn tôi, Nguyễn Văn Quang – Cố Đại Úy ở tuổi 27, chưa vương thê nhi.

Tôi quý anh, nhớ anh. Anh ở đây, giờ này anh ở đâu!

Thiếu Tá Nguyễn Kim Đễ:

Anh tốt nghiệp Khoá 16 Võ Bị Đà Lạt ngày 22/12/1962, trong khi tôi mới chỉ là Tân Khoá Sinh Khoá 19 vừa mới nhập trường Võ Bị ngày 23/11/1962.

Năm 1965, sau trận Ấp Bắc, anh từ Sư Đoàn 7BB tuyên chuyển về TQLC, anh làm Đại Đội Trưởng ĐĐ4/TĐ5/ TQLC thì tôi làm Đại Đội Phó cho anh. Sang năm 1966, anh và tôi cùng được thuyên chuyển về TĐ2/TQLC. Sau một thời gian làm trung đội trưởng cho Anh Nguyễn Xuân Phúc thì tôi lại được chuyển sang làm ĐĐP/ĐĐ1 cho Anh Kim Đễ. Khi Anh Đễ lên làm Tiểu Đoàn Phó TĐ2 thì tôi thay anh, làm ĐĐT/ĐĐ1. Khi anh đi làm TĐT/TĐ9 Mãnh Hổ thì tôi vẫn ở lại TĐ2. Những tưởng rằng “đường ai nấy đi”, nhưng không, khi anh là Trung Tá Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn thì tôi lại thuyên chuyển về làm Trưởng Ban Hành Quân thuộc Phòng 3.

Trong số 10 anh Khoá 16/Võ Bị về TQLC thì tôi là thuộc cấp trực tiếp của 6 anh, theo thứ tự thời gian đó là các anh: Nguyễn Kim Đễ, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Ngọc Toàn, Phạm Văn Sắt và Trần Văn Hiển. Các anh là những cấp chỉ huy giỏi, là thầy của tôi. Các anh đã là Tiểu Đoàn Trưởng, Lữ Đoàn Phó, Lữ Đoàn Trưởng và Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn.

Thầy đã giỏi thì không có trò tồi! Tôi đã học được nơi các anh những điều cần thiết của một quân nhân TQLC. Tôi có quá nhiều kỷ niệm vui buồn với các anh.

Với anh Nguyễn Kim Đễ, kỷ niệm đầu đời của tôi với anh là “khói lửa” trận Đức Cơ 1965. Trên đường tiến quân cứu Đồn Đức Cơ đang bị địch bao vây, anh là ĐĐT/ĐĐ4/ TĐ5 ra lệnh cho tôi và Phạm Thanh Quang (cùng Khoá 19VB) tiến quân thật nhanh, khi ta và địch gần nhau thì “thần hỏa” AD6 mang bom Napalm đội xuống giao thông hào thiêu địch thì anh em tôi cũng bị sức nóng làm quăn tóc, tay tôi bị phỏng vì miểng xăng đặc văng vào tay.

Năm 2015, từ Oregon, anh gửi tặng tôi bộ quân phục TQLC với lời ghi chú:

“Sau trận Ấp Bắc, anh từ SĐ7 BB thuyên chuyển về TĐ5/TQLC, chú đã tặng anh bộ quân phục nylon TQLC, nay nhớ kỷ niệm xưa, anh tặng lại chú.”

Một kỷ niệm tình huynh đệ hơn nửa thế kỷ mà anh còn nhắc lại khiến tôi mủi lòng và rồi, tin anh đột ngột ra đi, tôi chỉ kịp ghi vài dòng để tưởng nhớ đến một người anh đáng kính phục “Trâu Già, Mãnh Hổ Nguyễn Kim Đễ”:

“Trâu Già, Mãnh Hổ, Đà Lạt Nguyễn Kim Đễ

Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia

Tiểu Đoàn 2, Tiểu Đoàn 9, Trưởng Phòng 3 SĐ/TQLC Một Cọp Biển can trường Một cấp chỉ huy lý tưởng

Một con chiên ngoan đạo

Một người chồng người cha gương mẫu

Đã sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa

Nhưng gia đình, đồng đội, đồng môn, đồng khóa thương tiếc Anh.

Đại Uý Trần Văn Hợp:

Hợp và tôi tốt nghiệp Khóa 19 Võ Bị, cùng được chọn về TQLC nhưng khác tiểu đoàn nên chúng tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau. Ngày tôi bị kỷ luật, bị thuyên chuyển từ TĐ5 về TĐ2, thấy Hợp mang xe GMC đến đón khiến tôi mừng thầm: “Về đơn vị mới mà có một người bạn cùng khóa thì cũng đỡ bơ vơ.” Nghĩ vậy nên tôi đến chào Trung Úy Hợp đúng theo quân kỷ, Hợp hững hờ đưa tay ra cho tôi cầm, rồi hắn chỉ tôi leo lên phía sau xe GMC ngồi chung với anh em binh sĩ, trong khi hắn ung dung lên cabin ngồi một mình!

Đắm tàu tưởng gặp phao hóa ra đụng bọt biển! Có một cái gì đó gần giống nhau của anh Phúc và Hợp đối xử lạnh nhạt với tôi. Không hiểu sao lúc đó tôi lại không đi uống rượu, chửi thề, hoặc bỏ về Sàigpfn chơi cho bõ ghét. Sau vài lần “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, nhất là sau trận Bích La Thôn, cả hai anh Phúc và Hợp đã cho tôi một nụ cười.

Khi Hợp lên làm Đại Đội Trưởng ĐĐ4 thay anh Phúc, tôi cũng được đôn lên làm Đại Đội Phó cho Hợp, cùng nhau vui chơi và làm việc cho đơn vị mà không phân biệt trưởng, phó, chính vì vậy mà đã có lần Hợp chửi tôi “ngu”.

Bồng Sơn, Tam Quan (Bình Định) vào thời điểm 1967 du kích nhiều, ẩn hiện như ma, ngày thì lặn, đêm đêm chui ra vác loa kêu gọi “Lính Thủy Đánh Bộ” đầu hàng! Nghe mãi nhức đầu, sôi máu nên một đêm tôi lựa mấy tay “đen đen” cùng tôi đi phục kích để bịt miệng mấy tên này mà không báo cho Hợp biết. Toán phục kích tóm được một tổ tam tam, một AK, một mã tấu, và một chị thổi loa. Hí hửng mang loa về khoe, Hợp khen toán phục kích giỏi rồi ghé tai tôi nói nhỏ:

– Mày ngu bỏ mẹ, du kích vùng này đông như cỏ dại. Nhiệm vụ này đâu phải của đại đội phó, lỡ xảy ra chuyện gì thì liệu có đáng không?

Lần đầu gặp nhau, hắn đưa tay cho tôi cầm khiến tôi ghét hắn bao nhiêu thì lần Hợp chửi tôi “ngu”, thì tôi lại phục hắn bấy nhiêu. Tôi hiểu tấm lòng lo lắng của cấp chỉ huy xen lẫn tình bạn bè trong lời hắn sỉ vả tôi: “Mày ngu!

Một thời gian ngắn sau, tôi lên coi ĐĐ1, Hợp vẫn coi ĐĐ4, tuy không còn chung một đại đội, nhưng chung tiểu đoàn, dù hành quân hay về hậu cứ thì ba tên độc thân: Hợp, Chính (ĐĐP của tôi), và tôi đều buồn vui có nhau như anh em một nhà. Rồi Chính tử trận bên kinh Cái Thia, Cai Lậy (31/12/1967). Tháng 6/1969 tôi bị loại khỏi vòng chiến bên kinh Cán Gáo, Chương Thiện; Hợp tiếp tục cầm súng, làm Tiểu Đoàn Phó, sau Hạ Lào 719, Hợp thay thế anh Phúc để trở thành Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/TQLC (Trâu Điên) cho tới giờ thứ 25 ngày 30/4/1975.

Trong số hơn 30 Thiếu Úy K19/VB tình nguyện về TQLC từ 28/11/1964, sau một thời gian dài chinh chiến thì đa số tử trận và bị thương, bị loại khỏi vòng chiến, Hợp tiếp tục chiến đấu và là tiểu đoàn trưởng duy nhất trong số hơn 30 đồng khóa.

Không thể kể hết những trận đánh và chiến công của Hợp, vả lại nếu có thì đó cũng là công trạng chung của Tiểu Đoàn mà không của riêng ai. Vì thế trong bài này, tôi sẽ không đề cập tới “tiếng súng chiến trường” mà chỉ là tâm tình riêng.

Thời gian 1973, tôi làm việc tại Phòng 3 Sư Đoàn, mỗi khi các tiểu đoàn trưởng về họp tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn (ở Hương Điền), Hợp đều ghé Phòng 3 tìm tôi, hắn im lặng đưa tay cho tôi bắt. Tôi nắm trong đó được một ít tiền lẻ đủ vài chầu cơm hàng cháo chợ của quán mụ Luyến bên bờ Phá Tam Giang. Có lúc tôi giả bộ chê “Sao mày rách thế?” thì hắn chỉ mỉm cười.

Ít nói là bản tính của Hợp, kín tiếng ngậm miệng ngay cả khi “mở rộng bàn tay”. Những đàn em như Lê, như Trần đều không hay biết gì về việc Tiểu Đoàn Trưởng Trần Văn Hợp đề nghị thăng cấp thiếu tá cho họ. Họ tâm sự:

– Tụi tôi không hay gì cả, chỉ khi được gọi lên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn gắn lon thiếu tá mới biết do anh Hợp đề nghị.

Sống chết với nhau nhưng chúng tôi không hề biết tôn giáo của nhau, chẳng nhà Chùa mà nhà Chúa cũng không. Đời lính tráng chỉ biết theo đạo “ù ù”, nhưng “cách cho” của Hợp có vẻ như làm theo lời khuyên của Thánh Kinh: “Khi tay phải làm việc thiện, đừng cho tay trái biết.

Sáng 29/3/1975, Hợp và tôi gặp nhau tại bờ biển Non Nước, rồi lênh đênh xuôi Nam, chia nhau gói mì tại Vịnh Cam Ranh, rồi về bãi biển Vũng Tàu vào những ngày giữa tháng 4/1975. Chỗ nào thì cũng chỉ nhìn nhau lắc đầu, mong sao không còn phải lui nữa.

Những ngày cuối tháng 4/1975, trong khi “hậu phương” Sàigòn tìm mọi phương tiện để ra biển thì tất cả quan lính TQLC lại từ bờ biển Vũng Tàu tiếp tục chiến đấu từ Biên Hoà, Long Bình rồi cố thủ tại Căn Cứ Sóng Thần

Sáng 30/4/1975, sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh buông súng, các Tiểu Đoàn Trưởng họp cùng Đại Tá Tư Lệnh Phó TQLC tại Bộ Chỉ Huy căn cứ Sóng Thần (Thủ Đức) rồi nhận lệnh “giã từ vũ khí”!

Trời bỗng đổ một cơn mưa rào. Hợp và tôi dựa lưng nhau chùi nước mắt, vất xe Jeep, lội bộ từ Thủ Đức về Thị Nghè (vì gia đình chúng tôi cùng ở trong Trại Gia Binh Cửu Long). Khi đi ngang ngã ba Giồng Ông Tố, thấy súng nổ, mấy tên VC vác AK chạy tới chạy lui trên xa lộ miệng chửi tục:

– Đ.M. tụi Trâu Điên còn ngoan cố chống cự.

Đang khóc trong lòng mà tôi cũng phải mím môi cười thầm bên tai Hợp:

– Đàn em mày còn tiếp tục chiến đấu mà mình… Chúng minh thua đàn em rồi!

Sau vài tuần ngơ ngáo, ngày 14/6/1975 chúng tôi cùng “rủ nhau” vào tù, gặp đủ mặt “anh hào” cùng chung một trại Long Giao, không sót một ai, cùng chia nhau trái đắng.

Trong buổi “lên lớp” đầu tiên tại trại tù Long Giao về đề tài “Ngụy Quân, Ngụy Quyền”, tên “giáo viên” VC kết tội cả các vị tuyên úy, bác sĩ, rồi bọn nó cao giọng nạt nộ, dõng dạc và dứt khoát tuyên bố:

– Những cái gọi là Trâu Điên, Cọp Đầu Rằn thì sẽ bị trừng trị đích đáng!

Tôi lại có dịp thúc cùi chỏ vào ba sườn Trâu Điên Hợp nói nhỏ: “Nó hù mày.”

Mặt Trâu Điên Hợp vẫn tỉnh bơ, quả thật điếc không sợ súng.

Rồi tôi trước, Hợp sau, lưu đày đất Bắc. Tôi và Hợp bắt tay từ giã nhau tại trại tù Suối Máu (Biên Hòa) năm 1976 mà không biết đó là lần chia tay sau cùng! Trâu Điên Trần Văn Hợp đã bị “trừng trị đích đáng” trong rừng núi vùng Thượng Du Bắc Việt như lời tuyên bố của “giáo viên”! Trâu Điên Hợp tung hoành khắp mọi miển đất nước, nhưng sau cùng bị gãy sừng và Trâu Điên tử nạn trong tù bởi vũng “chân trâu”!

Đời binh nghiệp của Hợp gắn liền với Tiểu Đoàn Trâu Điên, từ những ngày đầu tiên 11/1964 là Trung Đội Trưởng của Đại Đội Trưởng Nguyễn Xuân Phúc cho đến những ngày cuối cùng 29/3/1975, Hợp vẫn là Tiểu Đoàn Trưởng thuộc quyền Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc. Vì thế, những đức tính cần có và đủ của một cấp chỉ huy tác chiến lý tưởng thì Trần Văn Hợp là “bản sao” của anh Nguyễn Xuân Phúc: “Cấp chỉ huy giỏi thì không có thuộc cấp tồi.”

Trần Văn Hợp là Tiểu Đoàn Trưởng Trâu Điên cuối cùng và không còn nữa nhưng vẫn còn mọi sự mến mộ của thượng cấp, bạn bè và lòng kính trọng của thuộc cấp. Một thượng cấp trong Binh Chủng đã nói về Hợp như thế này:

– Ai đó có thể ghét, nhưng không ai có thể khinh thường Hợp được.

Dù đã về Thiên Quốc như các Trâu Điền Trưởng: Lê Hằng Minh, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Văn Hợp, hay còn nặng nợ với trần gian như Đồ Sơn Ngô Văn Định, tôi xin nghiêng mình kính phục các TRÂU ĐIÊN TRƯỞNG, những cấp chỉ huy lý tưởng của Binh Chủng TQLC, những người con yêu quý của Quân Lực VNCH.

Các anh đã cùng quân nhân các cấp chiến đấu khắp mọi miền đất nước, từ Bến Hải đến Cà Mau, Kampuchea, Hạ Lào, tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, làm đẹp màu cờ sắc áo rằn ri với dây biểu chương màu Tam Hợp, trong đó Quân Kỳ TĐ2/TQLC Trâu Điên đã 8 lần được tuyên dương công trạng trước Quân Đội, trong đó công trạng của Trần Văn Hợp không phải là ít.

Khi ngồi chụp tấm hình này, Hợp cười nhạo tôi:

– Mày tiêu rồi, hết “nhảy dù” rồi nhá, thế là thọ rồi.

Bị loại khỏi vòng chiến là “thọ” ư? Tôi làm bộ giận, đáp:

– Coi chừng, tao cho cái cùi chỏ bây giờ.

Trần Văn Hợp, một đồng đội, một cấp chỉ huy thân thiết và lý tưởng của tôi.

Đại Úy Vũ Đoàn Dzoan:

Vào thời gian 1969 – 1970, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/ TQLC là anh Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Phó (TĐP) là anh Nguyễn Kim Đễ, còn các Đại Đội Trưởng là Hợp, Dzoan, Thương và tôi. Trong các cuộc hành quân, thông thường cánh B của TĐP Nguyễn Kim Đễ gồm có ĐĐ1 của tôi và ĐĐ2 của Dzoan nên chúng tôi có nhiều kỷ niệm ngọt bùi cay đắng với nhau. Ngày tôi bị trọng thương, cánh B Tiểu Đoàn Phó đi phép nên chính Dzoan là người điều động trực thăng tải thương cho tôi kịp thời.

Nhưng trong khi tôi đang nằm bệnh viện thì Dz0an lại bị trọng thương rồi Dzoan giải ngũ năm 1973.

Hiện nay gia đình Vũ Đoàn Dzoan đang định cư tại Florida.

Trung Úy Phạm Văn Tiền:

Thời gian chụp tấm hình này, Trung Úy Phạm Văn Tiền là ĐĐP/ĐĐ2 của Đại Úy Vũ Đoàn Dzoan. Anh Tiền tốt nghiệp Khóa 20 VB.

Cuối năm 1969, khi TQLC thành lập TĐ7 thì TĐ2 chuyển cả ĐĐ3 sang TĐ7, và TĐ22 thành lập đại đội mới lấy tên là ĐĐ5 do Trung Úy Tiền làm ĐĐT.

Đường binh nghiệp của anh Tiền đầy gian nan nhưng cũng không kém phần vinh quang. Cấp bậc và chức vụ sau cùng là Thiếu Tá TĐT/TĐ5/TQLC.

Hiện anh định cư cùng gia đình tại Dallas, Texas. ⬛


[1] Đã hy sinh

[2] Trích lời ca khúc “Người Lính Già Khóc” của Nguyễn Đình Hiếu