Thống-Tướng (General of the Army), tướng 5 sao, là cấp bậc cao nhứt của Quân Đội Mỹ và trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Hoa Kỳ chỉ có một số rất ít tướng lãnh đạt đến cấp bậc đó mà thôi.  Bài viết này đề cập đến vị Thống-Tướng lừng danh nhứt của Quân Đội Mỹ: Tướng Douglas MacArthur (1880-1964).

 Thống-Tướng Douglas MacArthur    

Thống Tướng Douglas MacArthur (1880-1964)

Tướng MacArthur sinh ngày 26-1-1880 tại Little Rock, tiểu bang Arkansas, trong một gia đình có truyền thống quân đội.  Lúc đó, cha ông, Arthur MacArthur, Jr. (1845-1912) là một Đại Úy Lục Quân, về sau là Trung-Tướng giữ chức Toàn Quyền tại Phi Luật Tân.  Cụ nội của ông, Arthur MacArthur, Sr. (1815-1896), đã từng là một vị Trung-Tướng trong lực lượng Bắc Quân (Union Army) trong Cuộc Nội Chiến (American Civil War, 1861-1865).[1]

 Ông theo học và đậu đầu khóa (Valedictorian) tại Học Viện Quân Sự Miền Tây Texas (West Texas Military Academy), sau đó vào học Trường Võ Bị West Point, và tốt nghiệp Thủ Khoa với cấp bậc Thiếu Úy (Second-Lieutenant) vào năm 1903.

Vì lập được nhiều chiến công, được tưởng thưởng nhiều huy chương, trong đó có cả huy chương Medal of Honor (1914) [2] là huy chương cao quý nhứt của Hoa kỳ, ông đã thăng cấp rất nhanh, và vào năm 1917 ông đã mang cấp bậc Đại-Tá, giữ chức Tham Mưu Trưởng của Sư Đoàn 42 Bộ Binh nổi tiếng (42nd Division, mang tên là Rainbow Division = Sư Đoàn Cầu Vồng).  Trong thời gian Hoa Kỳ tham gia Thế Chiến I (1917-1919), sau khi được tưởng thưởng Medal of Honor lần thứ nhì, và rất nhiều huy chương khác trong có cả 2 huy chương Distinguished Service Cross [3] và 7 huy chương Silver Star, [4] ông được thăng cấp lên Chuẩn-Tướng (Tướng Một Sao).

 Sau thế Chiến I, từ năm 1919 cho đến năm 1922, Chuẩn-Tướng MacArthur là Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị West Point.   Năm 1925, ông thăng cấp lên Thiếu-Tướng (Tướng Hai Sao) và là vị Thiếu-Tướng trẻ nhứt của Quân Đội Mỹ.   Ba năm sau, 1928, ông thăng cấp lên Trung-Tướng (Tướng Ba Sao) và được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Lực Lượng của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân, với Bộ Tư Lệnh đóng tại Manila.   Ngày 21-11-1930, ông thăng cấp lên Đại-Tướng (Tướng Bốn Sao) và được Tổng Thống Herbert Hoover bổ nhiệm làm Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ (U.S. Army Chief of Staff).   Năm 1935, Tướng MacArthur được cử làm Cố Vấn Quân Sự tại Phi Luật Tân, lúc đó hãy còn là một thuộc địa của Hoa Kỳ.  Năm 1937, ông chính thức nghỉ hưu từ quân đội, nhưng vẫn tiếp tục giữ chức vụ Cố Vấn Quân Sự tại Phi Luật Tân.   Tháng 7-1941, trước tình hình quân Nhật càng ngày càng bành trướng, đe dọa nền an ninh của Phi Luật Tân, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt gọi tái ngũ Tướng MacArthur, lúc đầu ở cấp bậc Thiếu-Tướng, rồi Trung-Tướng, và sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng đầu tháng 12-1041, vào ngày 20-12-1941, ông trở lại mang quân hàm Đại-Tướng, với chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Viễn Đông (Commander of U.S. Army in the Far East).

Tư Lệnh Mặt Trận Thái Bình Dương

Sáng sớm ngày Chúa Nhựt, 7-12-1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công và gây thiệt hại lớn cho Hạm Đội Thái Bình Dương (U.S. Pacific Fleet cũng gọi là U.S. Seventh Fleet, tức là Hạm Đội 7) của Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng (Pearl Harbour, Honolulu, Hawaii).  Ngày hôm sau, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật và Chiến Tranh Thái Bình Dương (Pacific War 1941-1944) bắt đầu.  

Sau trận Trân Châu Cảng, quân Nhật đã nhanh chóng tấn công và chiếm các đảo thuộc lãnh thổ của Hoa Kỳ như các đảo Guam, Wake, Marshall, cũng như các lãnh thổ thuộc địa của Anh như Hong Kong, Singapore, Mã Lai và Miến Điện.  Trước đó, từ năm 1940, lợi dụng thế yếu của Pháp (lúc đó phân nữa phía Bắc của nước Pháp đã bị quân Đức Quốc Xã chiếm đóng), Nhật đã mang quân vào kiểm soát toàn bộ Đông Dương rồi.  Vì thế tại thời điểm này, quân Nhật đã kiểm soát gần như toàn bộ Miền Tây của Thái Bình Dương, như bản đồ bên dưới đây đã minh họa:[5]

Thái Bình Dương – Vùng dưới quyền kiểm soát của Nhật (trong vòng đỏ)

             Về phần Phi Luật Tân, ngày 22-12-1941, quân Nhật đổ bộ lên đảo Luzon, quân Mỹ không chống cự nổi, thủ đô Phi Lật Tân là Manila bị bỏ ngỏ và quân Nhật đã tiến vào chiếm ngày 2-2-1942.  Tướng MacArthur ra lệnh cho quân Mỹ rút về cố thủ trên bán đảo Bataan, và đảo Corregidor.   

Bán đảo Bataan và đảo Corregidor    

Ngày 11-3-1942, Tổng Thống Mỹ Franklin Roosevelt ra lệnh cho Tướng MacArthur rời khỏi Corregidor và di tản sang Úc Châu, giao quyền Tư lệnh lại cho Trung-Tướng Jonathan M. Wainwright.   Trước khi đi tản khỏi Corregidor, Tướng MacArthur đã tuyên hứa với nhân dân Phi Luật Tân như sau: “I Shall Return.” (xin tạm dịch sang Việt ngữ: “Tôi Sẽ Trở Lại.”) [6]

Ngày 18-4-1942, Tướng MacArthur đã được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Tối Cao của Các Lực Lượng Đồng Minh Tại Vùng Tây-Nam Thái Bình Dương (Supreme Commander of Allied Forces in the Southwest Pacific Area).

Đầu tháng 5-1942, trong các ngày 4-8, đã diễn ra trận hải chiến Biển San Hô (Battle of the Coral Sea [7]) giữa các hạm đội của Nhật, Hoa Kỳ và Úc.  Đây là một trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử mà hạm đội hai bên KHÔNG nhìn thấy nhau vì cách nhau đến 70 hải lý (130 km), chỉ sử dụng toàn phi cơ xuất phát từ các hàng không mẫu hạm (HKMH) để tấn công nhau.  Đây cũng là một trận hải chiến rất quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn cho Chiến Tranh Thái Bình Dương, đánh dấu việc bành trướng của quân Nhật lần đầu tiên bị chặn lại.  Cả hai phe đều bị thiệt hại khá nặng, nhưng cả 2 phe đều cho là mình thắng: 

  • Hoa Kỳ bị mất:

° HKMH lớn là chiếc Lexington
° Tàu dầu Neosho của hạm đội
° Khu trục hạm Sims
° 69 phi cơ
° 656 tử trận

  • Nhật Bản bị mất:

° Một HKMH nhỏ là chiếc Shoho
° Hai HKMH lớn bị thiệt hại năng là: HKMH Shokaku và HKMH Zuikaku
° 1 khu trục hạm
° Nhiều chiến hạm nhỏ
° 97 phi cơ
° 966 tử trận

Quân Nhật phải hủy bỏ kế hoạch tấn công hải cảng Port Moresby ở đảo Papua New Guinea, cửa ngỏ để tiến chiếm Úc Châu.

Đúng như người xưa đã từng nói, “Họa Vô Đơn Chí,” Nhật lại bị thêm một thất bại lớn trong trận hải chiến Midway (Battle of Midway [8]) diễn ra trong các ngày 4-7 của tháng 6-1942.  Lần này thì không như trận Biển San Hô nữa, Nhật thua rõ rệt và bị thiệt hại nặng hơn Hoa Kỳ rất nhiều:

  • Hoa Kỳ bị mất:

° HKMH Yorktown
° Khu Trục Hạm Hammann
° 150 phi cơ
° 307 tử trận, trong đó có một tướng lãnh là Thiếu-Tướng (Major-General, Tướng 2 sao), Clarence L. Tinker, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Không Quân, khi ông đích thân chỉ huy một phi đội LB-30 của Phi Đoàn Oanh Tạc 31 vào ngày 7-6-1942

  • Nhật Bản bị mất:

° 4 HKMH: Akagi, Kaga, Soryu, và Hiryu
° Tuần Dương Hạm Mikuma bị đánh chìm
° Tuần Dương Hạm Mogami bị thiệt hại nặng
° 3 Khu trục Hạm bị thiệt hại nặng: Tanikaze, Arashi, và Kazagumo
° 1 tàu dầu: Akebono Maru
° 248 phi cơ
° 3057 tử trận, trong đó có Hải Quân Đại Tá Ryusaku Yanagimoto, Hạm Trưởng HKMH Soryu, đã tuẫn tiết, chết theo tàu khi HKMH Soryu bị đánh chìm; ông được truy thăng lên Phó Đề Đốc (Rear Admiral, Tướng 1 sao)
° 37 bị bắt làm tù binh

Sau hai trận hải chiến kể trên, Tướng MacArthur bắt đầu cho thực hiện cuộc phản công của Đồng Minh tại vùng Nam Thái Bình Dương theo đúng chiến lược Cóc Nhảy hay Nhảy Từng Đảo (Leapfrogging hay Island Hopping [9]), với mục tiêu là hướng về và chiếm lại Phi Luật Tân, sử dụng các lực lượng áp đảo về thủy-bộ để đánh chiếm từng đảo một trong vùng kiểm soát của quân Nhật, bỏ qua các đảo mà quân Nhật phòng vệ quá kỹ (với tin tưởng chắc chắn rằng các đảo này sau cùng sẽ bị cô lập và sẽ phải đầu hàng mà thôi).

Và như vậy, chiến lược Cóc Nhảy đã được Tướng MacArthur cho thực hiện từng bước như trong bản đồ dưới đây (các mũi tên hình cung màu đỏ phía bên dưới của bản đồ):

Bản đồ Cóc Nhảy từ Quần đảo Solomon cho đến Phi Luật Tân   

Trong vòng 2 năm (1942-1944), Tướng MacArthur đã thực hiện được lời tuyên hứa với dân chúng Phi Luật Tân.  Ngày 20-10-1944, cùng với binh sĩ Hoa Kỳ, ông đặt chân lên đảo Leyte, và ngay tối hôm đó, trong một thông điệp được phát thanh, ông tuyên bố: “People of the Philippines, I have returned.” (xin tạm dịch sang Việt ngữ: “Hỡi dân chúng Phi Luật Tân, tôi đã trở về.”).  Ngày 18-12-1944, Tướng MacArthur được Quốc Hội Hoa Kỳ tưởng thưởng ngôi sao thứ năm và trở thành một vị Thống-Tướng.

Xây Dựng Chế Độ Dân Chủ Cho Nước Nhật

Sau khi bị ném bom nguyên tử lần thứ nhì tại thành phố Nagasaki, Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.  Thay mặt Chính phủ Hoa Kỳ, Tướng MacArthur đã chủ tọa lễ đầu hàng của Nhật được ký kết trên chiến hạm Missouri bỏ neo trong Vịnh Tokyo vào ngày 2-9-1945:

Tướng MacArthur đọc diễn văn chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản trên Chiến Hạm Missouri ngày 2-9-1945

Ngay trước lễ đầu hàng của quân Nhật, vào ngày 29-8-1945, Tướng MacArthur đã được Tân Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman [10] cử nhiệm làm Tư Lệnh Tối Cao Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of Allied Powers – SCAP) với nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, xóa bỏ chế độ quân phiệt Nhật, và thực hiện việc thiết lập một chế độ dân chủ cho nước Nhật cũng như giúp đỡ Chính phủ Nhật xây dựng lại đất nước.

Trong chức vụ mới này, Thống-Tướng MacArthur đã cho thấy rõ ông cũng là một nhà lãnh đạo chính trị khôn ngoan và tài giỏi.  Biết rõ sự tôn trọng, gần như là sùng bái, của dân chúng Nhật đối với Nhật Hoàng, nên mặc dù bị áp lực rất nặng nề phải đưa Nhật Hoàng ra xét xử như một tội phạm chiến tranh giống như các nhà lãnh đạo khác của Chính phủ Nhật (thí dụ: Tướng Hideki Tojo,[11] Thủ Tướng Nhật bị đem ra xử, bị kết án tử hình, và bị treo cổ ngày 23-12-1948), Tướng MacArthur vẫn giữ Nhật Hoàng Hirohito[12] ở cương vị Quốc Trưởng và cùng với Nhật Hoàng Hirohito giải thể chế độ quân phiệt, xây dựng chế độ dân chủ (với một bản Hiến Pháp) và tái thiết nước Nhật.

Thống-Tướng MacArthur và Nhật Hoàng Hirohito

Tướng MacArthur đã thành công rất xuất sắc trong nhiệm vụ nặng nề này, biến nước Nhật từ một nước quân phiệt hung hăng, hiếu chiến và tàn bạo trong Thế Chiến II trở thành một quốc gia dân chủ và là một nước đồng minh đáng tin cậy của Hoa Kỳ tại Châu Á và trong khu vực Thái Bình Dương.

Tướng MacArthur Trong Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953)

 Sau Thế Chiến II, cũng như nước Đức ở Châu Âu bị chia thành hai nước là  Đông Đức và Tây Đức, tại Châu Á, Triều Tiên cũng bị chia thành 2 nước là: Bắc Triều Tiên, cũng gọi là Bắc Hàn, với thủ đô là Pyongyang (Bình Nhưỡng) và Nam Triều Tiên, cũng gọi là Nam Hàn hay Đại Hàn, với thủ đô là Seoul (Hán Thành).  Ngày 25-6-1950, Bắc Hàn cho quân vượt khu Phi Quân Sự, đặt tại vĩ tuyến 38, tấn công Nam Hàn, và Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953) thật sự bắt đầu.   Hành động xâm lược này đã bị Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (United Nation Security Council, hay gọi tắt là UN Security Council) lên án (Liên Xô, 1 trong 5 nước có quyền phủ quyết, đã phạm sai lầm khi tự ý tẩy chay, bỏ họp) và cho phép Liên Hiệp Quốc (LHQ), thành lập một Lực Lượng Đặc Nhiệm (UN Task Force), mà đại đa số là quân Mỹ, sang cứu viện Nam Hàn, với Tướng MacArthur là Tư Lệnh.

Bản đồ Bán đảo Triều Tiên với 2 nước Bắc Hàn và Nam Hàn

Trong thời gian hai tháng đầu, vì thiếu phòng bị, quân Nam Hàn phải triệt thoái về phía Nam, mất gần hết lãnh thổ, và, sau cùng thiết lập phòng tuyến cố thủ tại Busan tại góc Đông Nam của bán đảo.

Tướng MacArthur đã tổ chức cho quân LHQ đổ bộ vào Vịnh Incheon, thiết lập đầu cầu, và phản công.  

Bản đồ Vinh Incheon (Nam Hàn)

Quân LHQ đã liên tiếp thắng quân Bắc Hàn khắp nơi và chiếm lại được Thủ đô Hán Thành của Nam Hàn, và sau cùng, vào tháng 10-950, đẩy lui quân Bắc Hàn về phía Bắc vĩ tuyến 38.  Ngày 25-9-1950, Tướng MacArthur, bất chấp lệnh cấm từ Washington của Tổng Thống Truman, đã ra lệnh cho quân LHQ vượt vĩ tuyến 38, tấn công trực tiếp vào lãnh thổ của Bắc Hàn.  Trước viễn ảnh Bắc Hàn có thể bị mất vào tay quân LHQ, ngày 14-10-1950, Trung Cộng đã gửi chí nguyện quân vào Bắc Hàn để ngăn chặn bước tiến của quân LHQ.  Quân Trung Cộng đã dùng Chiến Thuật Biển Người để tấn công và tràn ngập các cứ điểm của quân LHQ.   Tướng MacArthur đã tuyên bố sẽ sử dụng bom nguyên tử để tiêu diệt các đơn vị của Trung Cộng. 

Tướng MacArthur Kết Thúc Binh Nghiệp

Lời tuyên bố trên của Tướng Đây chính là “giot nước tràn ly,đối với Tổng Thống Truman.  Ngày 11-4-1951, Tổng Thống Truman giải nhiệm Tướng MacArthur khỏi chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm LHQ.   Xúc động và phẫn nộ trước hành động thô bạo và vô ơn bạc nghĩa của Tổng Thống Truman, dân chúng Hoa Kỳ đã dành cho Tướng MacArthur một cuộc tiếp đón vĩ đại và vô cùng ngoạn mục như một vị anh hùng chiến thắng tại Thành phố New YorK (Ticker Tape Parade) như chúng ta thấy rõ trong tấm ảnh bên dưới đây:

Cuộc tiếp đón chào mừng (Ticker tape parade) Tướng MacArthur tại New York City

Ngày 19-4-1951, Tướng MacArthur đã được mời ra phát biểu trước một phiên họp lưỡng viện của Quốc Hội Hoa Kỳ, và chính tại đây ông đã phát biểu lời từ biệt dân chúng Hoa Kỳ và kết thúc sự nghiệp quân sự 52 năm đầy chiến công hiển hách của ông, với phần kết thúc như sau:

I am closing my 52 years of military service. When I joined the Army, even before the turn of the century, it was the fulfillment of all of my boyish hopes and dreams. The world has turned over many times since I took the oath on theplain at West Point, and the hopes and dreams have long since vanished, but I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day which proclaimed most proudly that “old soldiers never die; they just fade away.”

And like the old soldier of that ballad, I now close my military career and just fade away, an old soldier who tried to do his duty as God gave him the light to see that duty.

Good Bye.”

(xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tôi chấm dứt 52 năm phục vụ trong quân đội.  Khi tôi gia nhập quân đội, ngay cả trước khi thế kỷ này bắt đầu, tôi đã thực hiện được những hy vọng và ước mơ của tuổi thơ của tôi.  Thế giới đã đảo lộn nhiều lần từ khi tôi tuyên thệ trên cánh đồng của West Point, và những hy vọng cùng ước mơ đã tan biến, nhưng tôi vẫn còn nhớ được phân khúc của một bài ca dân gian rất được ưa chuộng đã xác quyết một cách kiêu hãnh rằng “những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ bị mờ nhạt đi thôi.”  Và, giống như người lính già trong bài ca dận gian đó, bây giờ tôi kết thúc binh nghiệp của tôi và chỉ mờ nhạt đi thôi, một người lính già đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ mà Thượng Đế đã cho tôi ánh sáng để nhìn thấy nó.  Tạm biệt.”

Dựa trên tình cảm và sự ủng hộ của dân chúng Mỹ đối với Tướng MacArthur, Đảng Cộng Hòa đã có ý định chọn ông làm ứng viên ra tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ [13] nhưng sự việc đã không thành.

Thống-Tướng Douglas MacArthur mất vào ngày 5-4-1964 tại Bệnh Viện Walter Reed của Quân Đội (Walter Reed Army Medical Center), thọ 84 tuổi.

Thay Lời Kết

        Thống-Tướng Douglas MacArthur, một trong số rất ít các vị Tướng Năm Sao của Hoa Kỳ, đã có được một binh nghiệp dài hơn nửa thế kỷ với nhiều chiến công hiển hách và được sự kính yêu gần như tuyệt đối của nhân dân Hoa Kỳ.  Đúng như lời ông đã phát biểu tại Quốc Hội, Tướng MacArthur đã là “một người lính già không chết mà chỉ mờ nhạt đi thôi” vì thật ra hình tượng của ông đã sống mãi trong lòng người dân Mỹ.

GHI CHÚ:

1. Douglas MacArthur, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Douglas MacArthur – Wikipedia

2. Medal of Honor, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:Medal of Honor – Wikipedia

3. Distinguished Service Cross (United States), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Distinguished Service Cross (United States) – Wikipedia

4. Silver Star, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Silver Star – Wikipedia

5. The Pacific Strategy, 1941-1944, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: The Pacific Strategy, 1941-1944 | The National WWII Museum | New Orleans (nationalww2museum.org)

6. 76 years ago, MacArthur gave this famous address to the Philippines: ‘I Shall Return.’ , tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: 76 Years Ago, MacArthur Gave This Famous Address To The Philippines: ‘I Shall Return’ – The Veterans Site News (greatergood.com)

7. Battle of the Coral Sea, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Battle of the Coral Sea – Wikipedia

8. Battle of Midway, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Battle of Midway – Wikipedia

9. Leapfrogging (strategy), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:Leapfrogging (strategy) – Wikipedia

10. Harry S. Truman, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Harry S. Truman – Wikipedia.  Sau khi Tổng Thống thứ 32 của Hoa Kỳ, Franklin D. Roosevelt (1882-1945), từ trần ngày 12-4-1945, Phó Tổng Thống Harry S. Truman, theo đúng quy định của Hiến Pháp, tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống thứ 33 của Hoa Kỳ.

11. Hideki Tojo, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Hideki Tojo – Wikipedia

12. Hirohito, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: Hirohito – WWII, Death & Facts (biography.com)

13. MacArthur for President, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: MacArthur For President | Defense Media Network